Thực tại và hoang đường 3


PHẦN I:     CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ

“Tại sao có một cái gì đó chứ không phải là không có gì?”
Lepnit.


Người xuống đò bến Có
Chèo chống về bến Không
Lênh đênh qua Cõi Tạm
Giữa ly biệt-trùng phùng
Thầy Cãi

Tồn Tại là Cái Ấy và cũng là Cái Này, Cái Ấy gồm cả Cái Này và đồng thời Cái Này là phần hiện hữu sinh động của Cái Ấy! Đó là hệ quả mà chúng ta rút ra được từ triết lý về tự nhiên trong Vêđa-Upanishad của Ấn Độ cổ đại, và nếu đó thuộc về Chân Lý tối thượng (?), đã tạo được sự mãn nguyện hoàn toàn đối với tâm trí con người thì nhiệm vụ của triết học đã được hoàn thành ngay từ lúc khởi đầu, từ rất lâu rồi, ít ra thì cũng vào thời điểm Parménide lần đầu tiên nêu lên một cách mạch lạc, khúc chiết cái ý niệm tồn tại của mình. Khốn nỗi, (nhưng cũng tự nhiên thôi!), con người với đặc tính tò mò của mình (xin nói rằng đặc tính tò mò của con người, suy xét kỹ, là do đòi hỏi được nhận biết và nhận biết ngày một sâu rộng hiện thực khách quan nhằm đảm bảo và tăng cường khả năng sinh tồn mà có, hơn nữa, nếu suy xét đến tận cùng, nó có nguồn gốc rất sâu xa, từ trong thế giới sinh vật, thậm chí, từ chính bản chất của Tồn Tại!) đã không cảm thấy thỏa mãn chút nào trước câu trả lời “huề trớt” và "mù mịt" ấy.

Một câu hỏi hồn nhiên nhất phải bật ra: “Cái Ấy (và cả Cái Này) là cái gì?”. Và lời đáp cũng lập tức xuất hiện: "Là Cái Tồn Tại chứ còn cái gì vào đây nữa!". Vậy, Cái Tồn Tại là cái gì? Là cái gì đó mặc lòng nhưng phải là cái gì đó chứ không thể là không có gì! Nếu cái gì đó là không gì cả, là tuyệt đối trống rỗng thì có thể nói Tồn Tại là Hư Vô (hư vô tuyệt đối), là Tồn Tại cái không Tồn Tại. Nếu Tồn Tại "kiểu" như thế thì làm sao có được những dòng chữ này? Bởi vì đã là Hư Vô thì ngay cả không gian và thời gian cũng không thể thể hiện, nghĩa là ngay cả cái tuyệt đối trống rỗng cũng không "có quyền" được hiện hữu. Nhưng nếu không có khái niệm Hư Vô thì làm sao mà bàn luận về Tồn Tại được? Do đó phải thừa nhận Hư Vô! Để né tránh mâu thuãn logic và tiếp tục tiến liên, chúng ta chỉ còn cách duy nhất là..."ngụy biện": Hư Vô cũng thuộc về Tồn Tại, là bộ phận đóng vai trò "mặt trái"-mặt tương phản của Thực Tại Khách Quan, hay cũng có thể là chính Tồn Tại được quan sát, nhìn nhận theo một góc độ khác của tư duy trừu tượng, nghĩa là chẳng hạn, nếu cho rằng Tồn Tại là sự thực tuyệt đối thì Hư Vô là sự ảo tuyệt đối, hoặc giả, Tồn Tại là một thể duy nhất, thống nhất hợp thành giữa hai "mặt", hai "lực lượng" tương quan quyết định lẫn nhau của chính Nó, mà chúng ta đặt tên là Thực và Ảo. Nói mộc mạc cho vui và cũng không đến nỗi hồ đồ lắm(!): Hư Vô là Tồn Tại ảo, trong phạm vi hẹp và hiểu theo lẽ thông thường thì Hư Vô mang tính qui ước; là Tồn Tại (cũng mang tính tùy tiện qui ước nốt!) đối với Hư Vô nhận thức, tức là đối với nhận thức của “cái tôi” cụ thể... đã chết; là một Tồn Tại không thể xem xét mà cũng chẳng có gì để mà bàn luận dông dài về nó. Sớm muộn rồi cũng như ông bà tổ tiên, chúng ta sẽ “thấy” nó, và lúc đó tha hồ mà “rảnh rỗi” chiêm nghiệm nó!

Còn bây giờ, chúng ta đang sống, phải tranh thủ thời gian để tìm hiểu xem Cái Ấy, cái Tồn Tại thực, là cái gì mà “lấy cái đầy Này trong cái đầy Ấy, cái còn lại vẫn đầy”, hơn nữa lại luôn đầy, không bao giờ vơi mà cũng chẳng bao giờ tràn!

* * *
Tồn Tại là sự Có Thực Khách Quan, là sự trình hiện tổng thể tất cả các sự vật - hiện tượng (có thể quan sát được và cả không thể quan sát được), và sự trình hiện ấy đồng thời cũng là một thể hiện của bản chất Tồn Tại.

Tồn Tại mà không thể hiện ra được, không phô diễn được thì Tồn Tại để làm gì? Thà là Hư Vô còn sướng hơn!. Không đâu xa, chính sự hiện diện của chúng ta là một minh chứng xác đáng về tính thể hiện của Tồn Tại. Vì nói đến Tồn Tại là nói đến cái “có sẵn” chung nhất, chung tuyệt đối nên Tồn Tại cũng phải là duy nhất, không thể có Tồn Tại bên cạnh Tồn Tại, cũng không thể có Tồn Tại bên trong hay bên ngoài Tồn Tại được. Khi chúng ta nói “cái này tồn tại cạnh cái kia, thì ngay lập tức phải hiểu rằng khái niệm tồn tại ở đây phải được hiểu theo nghĩa cụ thể như “có”, “ở” …, hay gọi là tồn tại tương đối, và “cái này”, “cái kia” là nhằm chỉ những sự vật cụ thể, cũng là những tồn tại tương đối. Tóm lại tồn tại (tương đối) là biểu hiện của Tồn Tại (tuyệt đối), là bộ phận của Tồn Tại, có thể hiện diện hay không hiện diện, có thể sinh ra hay mất đi tùy thuộc vào sự mất đi hay sinh ra của các tồn tại tương đối (sự vật-hiện tượng) khác, sao cho Tồn Tại (tuyệt đối) “vẫn đầy” và luôn đầy.

Chúng ta, một bộ phận của Tồn Tại, nhờ có sự phô diễn của các sự vật - hiện tượng ở xung quanh và cả ở trong chính mình mà phán đoán được, mà đốn ngộ được một hiện diện tối thượng, ẩn giấu ở phía sau, một Đấng Sáng Tạo, một Thượng Đế, một Tạo Hóa, một Tinh Thần Tuyệt Đối, một Linh Hồn Tối Cao đồng thời cũng là một Thực Thể Cực Đại … mà kinh Upanishad đã gọi là Đại Ngã, hay gói gọn lại một cách giản dị hơn: Cái Ấy.

Và nếu chỉ là Cái Ấy, không còn một cái gì khác ngoài Cái Ấy nữa thì toàn thể Vũ Trụ tổng thể các sự vật- hiện tượng phải được coi là sự biểu hiện của Cái Ấy, sự phô diễn của Cái Ấy và chính là Cái Ấy. Sự trình hiện và phô diễn ấy phải liên tục, hay nói đúng hơn là phải mạch lạc trong liên tục, vì nếu không thế, tính tuyệt đối tồn tại sẽ không được bảo toàn! Nghĩa là Cái Ấy phải chuyển hóa để biến đổi không ngừng nghỉ. Nói "to tát" hơn, Cái Ấy phải vận động sao cho đảm bảo được sự thường biến của nó trong sự tồn tại bất biến và tuyệt đối của nó, và vì không có gì khác ngoài nó nên vận động của nó vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của chính nó. Và vì lẽ đó, nếu đúng (!), ở đây cũng có thể không những rút ra được cái kết luận "vận động vật chất" mà triết học Mác đã rút ra được, mà còn ở tầm khái quát cao hơn: vận động vừa là thể hiện tất yếu về bản chất, vừa chính là bản chất cơ bản của Tồn Tại.(Trong thời đại ngày nay, quan niệm về một thế giới duy vật (chất) của triết học duy vật biện chứng, theo thiển ý của chúng ta, đã trở nên lỗi thời. Tuy nhiên, trong khi bàn luận, do "thói quen" mà chúng ta vẫn sử dụng thuật ngữ "vật chất", nhưng hiểu là khái niệm vật chất đã được mở rộng đến "cùng cực" để có nghĩa là tồn tại hay Tồn Tại!)

* * *
Sự phô diễn Cái Ấy, như dã trình bày, không phải như một bức tranh tĩnh vật, cứng đờ, bất động mà như một vở kịch vĩ đại, vô cùng sôi động, không có hồi kết, với vô vàn "nhân vật" xuất hiện ra, múa may quay cuồng rồi lại biến vào sau cánh gà sân khấu, nhường chỗ cho những "nhân vật" mới khác xuất hiện. Đó là một vở kịch vô tiền khoáng hậu mà con người mới xuất hiện gần đây thôi, cũng đang đóng một vai diễn tầm thường trong đó, với đủ hỉ nộ ái ố. Một vở kịch mà các vai diễn, các "nhân vật" trong đó cũng đồng thời là khán giả.

Thật vậy, thế giới chung quanh ta là thế giới của các sự vật - hiện tượng cùng với sự biến đổi lớn lao, không ngừng nghỉ của các sự vật - hiện tượng ấy. Ngày đêm thay phiên kế tiếp nhau, bốn mùa thay đổi xoay vần, lúc trời nắng, lúc trời mưa, nắng mưa mây gió hợp rồi tan, tan rồi hợp, đất trời cứ thế chuyển vần liên tu bất tận. Cỏ cây muông thú và cả chính con người nữa, sinh ra, lớn lên, nảy nở rồi già đi và đều chết cả, nhường chỗ cho mầm sau, cho con cái kế tục. Nghĩa là tất cả các sự vật - hiện tượng gần gũi quanh ta, ở trên đất này đều có một khởi đầu và một kết thúc, đều tồn tại tương đối ở giữa khởi đầu và kết thúc, và sự tồn tại ấy lại luôn luôn biến đổi; phát triển và suy tàn. Đến núi mà cũng mòn cũng lở thì cái gì là còn mãi? Tất cả các sao trên bầu trời kia còn lúc ẩn lúc hiện, còn “xê dịch” thì cái gì không biến đổi? Hỏi vui thế thôi chứ con người khán giả, con người quan sát đã chứng nhận sự biến đổi của vạn vật từ rất lâu rồi.

Trước đây, ở buổi bình minh của khoa học, người ta đã tưởng rằng Trái Đất đứng yên, là trung tâm Vũ Trụ, tất cả các sao và cả Mặt Trời đều quay quanh Trái Đất. Thuyết Địa Tâm ra đời (trở thành chân lý đến ngót hai ngàn năm!). Nhưng rồi Copecnic đã phát hiện ra sự trục trặc, làm hình thành nên thuyết Nhật Tâm để thay thế: Trái Đất không còn là tâm của Vũ Trụ nữa mà cũng giống như các hành tinh và ngôi sao, phải quay xung quanh Mặt Trời. Ngày nay mọi người đều thừa nhận rằng Vũ Trụ chẳng có một tâm chung cố định nào cả, tất cả các ngôi sao, vạn vật đều chuyển động, bình đẳng theo tự nhiên và trong sự hoạch định của tự nhiên.

* * *
Bây giờ, chúng ta hãy xét một trường hợp, đơn giản thôi cho phù hợp với trí năng của mình, đó là sự khởi đầu, tồn tại (tương đối) và kết thúc của một cái cây xem sao.

Có một hạt gieo xuống đất (người gieo, chim gieo hay gió gieo không quan trọng). Hạt nảy mầm và thành một cây con. Nhờ có đất và mưa gió thuận hòa, cây con ấy biến đổi, trưởng thành nên một cây cao. Để cảm ơn sự dung dưỡng và cưu mang, đến mùa, nó đơm hoa thơm, kết trái ngọt cho đời. Cứ như thế rồi đến một ngày kia, do một tai nạn nào đó hoặc hoàn toàn tự nhiên, chẳng hiểu vì sao, nó không sống nữa, nó tàn lụi dần đi, biến mất, kết thúc một tồn tại tươi xanh.

Quan sát xung quanh, trong một phạm vi rộng hơn, chúng ta có mường tượng rằng dù có thể dài hay ngắn, lâu hay mau thì mọi sự vật xuất hiện, trình diễn và biến mất cũng tương tự như thế, cũng là một quá trình như thế. Và nói rộng ra, toàn bộ Vũ Trụ là sự liên tục xuất hiện, trình diễn và biến mất của vạn vật.

Điều đó đương nhiên dẫn đến câu hỏi: “Thế thì vạn vật khởi đầu từ đâu, trình diễn để làm gì và biến đi đâu?”. Trả lời được câu hỏi này thì đồng thời cũng sẽ trả lời được nỗi day dứt bấy lâu của triết học: “Con người từ đâu đến đây, đến đây để làm gì và đi về đâu?”.

Không lẽ có một cái kho lưu trữ khổng lồ, thậm chí lớn vô hạn để vạn vật “ung dung” được xuất ra, múa may quay cuồng thỏa thích rồi ung dung được nhập về? Nếu có cái kho ấy thì nó ở đâu? Hay nó chính là khoảng chân không bao la ở giữa các vì sao, giữa các thiên hà, trong đó tiềm tàng một lượng vật chất tối to lớn mà các nhà vật lý hiện đại đã ước đoán và đang mò tìm? Nhưng nếu khoảng chân không và vật chất tối là cái kho ấy thì nó phải là một sự vật - hiện tượng, hiện diện tương tự như mọi sự vật - hiện tượng cụ thể khác, cũng có khởi đầu và kết thúc. Không thể hình dung nổi!

Nhớ lại ngày xưa, khi còn thơ, chúng ta thường nghêu ngao mỏi miệng một câu về các loài chim, đại ý là: “Chim ri là dì sáo sậu, sáo sậu là cậu bồ nông, bồ nông là ông bồ các, bồ các là bác chim ri, chim ri là …”. Không chừng các sự vật đã “chọn” cách này để trình hiện chăng? Là một cuộc tuần hoàn vật này biến hóa thành vật khác, vật khác biến hóa thành vật khác nữa … cứ như thế “tuần tự như tiến” và rồi vật này lại xuất hiện, lặp lại sự mất đi của một vật và đồng thời là sự xuất hiện của một vật khác. Nếu sự khởi đầu và kết thúc của vạn vật là gồm những vòng biến hóa như thế thì rõ ràng chẳng cần cái kho nào cả. Nhưng sao thấy sơ cứng, đơn điệu và buồn tẻ quá mà cũng chẳng phù hợp tí nào với bức tranh biến ảo, sống động, đa dạng và huyền bí đến không cùng của Vũ Trụ!?

Chúng ta hãy nhìn hiện tượng này: muôn ngàn hạt nước ào ào rơi xuống thành mưa, nhờ có mưa mà thành suối thành sông cuồn cuộn đổ nước về biển cả; rồi nắng làm nước bốc hơi từ sông từ biển, mà tích tụ thành những đám mây; từ mây lại hình thành nên muôn ngàn hạt nước mà thành mưa, … Đó là một cuộc xoay vần. Nếu cuộc xoay vần chỉ gồm những sự vật - hiện tượng ấy thôi thì như chúng ta đã nói: buồn quá! Thực ra, chúng ta đã nhìn không hết bức tranh, đã thấy nó một cách sơ sài, méo mó; đã không thấy được cái cơ bản cần thấy. Hiện thực không phải như vậy! Sự xoay vần ấy chỉ là một bộ phận không thể tách rời của cái tổng thể. Ngoài những sự vật - hiện tượng đã nêu, còn biết bao nhiêu sự vật - hiện tượng liên quan, tác động đến cuộc xoay vần và cuộc xoay vần ấy, ngược lại cũng tác động đến biết bao nhiêu sự vật - hiện tượng khác. Làm sao mà hơi nước tụ được thành mây để tạo ra những giọt nước làm mưa nếu không có tác động của hiện tượng tích điện, điện từ? Làm sao có mưa được nếu các giọt nước không rơi xuống nhờ lực hấp dẫn? Làm sao mà nước bốc thành hơi được nếu không thu nhiệt từ nắng, nóng? Mà nắng nóng ở đâu ra nếu không từ Mặt Trời, từ lòng đất? Rừng sẽ chết nếu không có nước, không có mưa, nhưng nếu không có rừng lưu giữ nước thì bao nhiêu dòng sông phải cạn kiệt? Và nếu không có đất, trời thì cũng chẳng có cái gì được triển khai để làm nên cuộc xoay vần ấy cả? …

Dù không thể mô tả hết được những mối quan hệ của tổng thể các sự vật - hiện tượng, nhưng chỉ ngần ấy thôi thì hiện thực đã hiện lên khác hẳn, sống động, phong phú và uyển chuyển hơn rất nhiều so với hình dung ban đầu.

Rốt cuộc thì hợp lý hơn cả, gần với thực tại hơn cả, chúng ta cần hình dung rằng: Toàn bộ Vũ Trụ là một tổng thể các sự vật - hiện tượng một cách trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc lẫn nhau, tác động vào nhau, chuyển hóa nhau liên tục, không bao giờ ngưng nghỉ; tạo nên một sự biến đổi toàn diện làm nguyên nhân của sự kết thúc, mất đi các sự vật - hiện tượng cũ đồng thời hình thành nên những sự vật - hiện tượng mới. Tất cả những tác động, chuyển hóa, biến đổi ấy được gọi dưới một cái tên chung là “vận động”. Theo F. Anghen: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất (…) bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong Vũ Trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản đến tư duy”, và “ … Sự tồn tại của toàn bộ thế giới tự nhiên, từ cái nhỏ nhất cho đến cái lớn nhất, từ hạt cát cho đến mặt trời, từ nguyên sinh vật cho đến con người, là một quá trình không ngừng nghỉ sinh ra và diệt vong, lưu động không ngừng, vận động và biến hóa bất tuyệt”. Chúng ta gọi sự biến đổi lớn lao, liên tục ấy là sự “thường biến”. Vũ Trụ là một tổng thể các sự vật - hiện tượng vận động không ngừng và thường biến!

Hêraclite đã để lại cho đời một câu sâu sắc: “Chúng ta không thể tắm hai lần trong cùng một dòng sông” là vì ông đã cảm nhận được đặc tính đó của Vũ Trụ (nhưng chắc rằng chưa biết được Vũ Trụ cũng chính là Tồn Tại, và hơn nữa, đã không thấy được trong khi Vũ Trụ trình diễn đặc tính thường biến của nó trước quan sát thì đồng thời cũng trình diễn cả đặc tính có tính tương phản đối ứng với thường biến, đó là đặc tính bất biến của nó. Vì rất đơn giản là nếu không thế, mỗi con người chúng ta đây không thể có được cuộc đời kéo dài đến... "tích tắc" chứ nói chi đến "đầu bạc răng long").

* * *
Chúng ta lại quay về với thí dụ cái cây.

Sự xuất hiện, trưởng thành, suy tàn và biến đi của cái cây đó là một quá trình thoạt nhìn, thấy đơn giản và tầm thường, xảy ra hàng ngày hàng giờ xung quanh ta, khiến ta chẳng bao giờ thấy thắc mắc, thậm chí cũng chẳng thèm để ý tới. Nhưng thực ra để trả lời thỏa đáng điều đó là không dễ, hoặc có khả năng là không bao giờ trả lời được hết ngọn nguồn. Vì vậy chúng ta lúc này đừng quá bận tâm tới câu đố mà cả nền triết học hiện đại, với nhiều triết gia đầu hói trụi tóc cũng bí tỵ. Dại gì theo họ để mà bế tắc, chấm dứt quá sớm cuộc hành trình mới đi được mấy bước chân!

Triết học, bằng con đường duy lý hoặc duy linh, bản thân nó chẳng bao giờ có thể đi tới đích. Cả triết học Phương Tây lẫn triết học Phương Đông; ở giai đoạn cuối cùng của nhận thức thực tại đã lúng túng, mất phương hướng, trở thành “vòng vo tam quốc”, “cãi chày cãi cối” và hoang mang ngụy biện. Khoa học thực chứng Châu Âu, với vật lý học là tiên phong và khoa học suy nghiệm Châu Á với tâm linh học là nòng cốt, hay nếu được, chúng ta đặt luôn cho chúng một cái tên chung là “triết học chứng minh”, dù có một quá trình hết sức oanh liệt, hết sức vẻ vang, dù trên con đường khám phá sự thực khách quan đã lập nên biết bao nhiêu kỳ tích cho nhân loại thì giờ đây cũng bắt đầu lúng túng y hệt.
Cả hai nền triết học Đông, Tây đều có mặt mạnh mặt yếu, cái tuyệt vời của suy lý này lại là cái thiếu “chết người” của suy lý kia và ngược lại. Nhận thức của nhân loại sẽ trở nên nhất quán, trong sáng và chân chính khi hai nền triết học đó thừa nhận nhau, kết hợp lại và cùng với triết học chứng minh tạo nên một hệ thống triết – khoa thống nhất, duy nhất để nói về Tồn Tại, cái cũng thống nhất và duy nhất.

Chết cha! Phởn chí lên, chúng ta đã tuyên bố quá hùng hồn. Lỡ lời rồi biết làm sao rút lại được đây? “Nhất ngôn phát xuất, tứ mã nan truy” (một lời nói ra, bốn ngựa khó đuổi kịp được). Thôi kệ, biết đâu chừng nhãn mác “Thầy Cãi” sẽ đi vào sử xanh, chí ít, cũng được như “Kẻ đốt đền”!

Chúng ta lại nói tiếp về cái cây.

Bắt chước khoa học thực chứng, chúng ta sẽ tiến hành một cuộc thực nghiệm:
Chúng ta lấy từ cây đang sống ra một phần nhỏ (một đoạn cành nào đó), đem phân chia nó ra (chúng ta có một thiết bị trong tưởng tượng, có thể phân chia bất cứ cái gì, nhỏ ra đến cỡ nào cũng được!!) thành bột nhỏ như cám. Tiếp tục phân chia nữa, phân chia mãi. Và quan sát sau mỗi lần phân chia, chúng ta thấy gì? Lúc đầu là bụi cám, sau đó là các tế bào, rồi đến các hợp chất, nhỏ hơn hợp chất là các loại nguyên tử, nhỏ hơn nữa là các hạt proton, notron, điện tử …; tiếp tục nhỏ hơn nữa là các photon, nơtrino … và nếu photon, nơtrino là một cấu tạo phức hợp thì chúng ta sẽ chia nhỏ nữa. Cuối cùng sẽ đến giới hạn, đến một cái gì đó nhỏ nhất (tạm gọi là hạt) không thể phân chia được nữa; là hạt “nguyên tử” như Dêmocrite đã hình dung, hay là “thực thể tế vi” như kinh Upanishad đã suy nghiệm. Vì sao không thể phân chia hạt đó nhỏ hơn được nữa khi mà thiết bị tưởng tượng của chúng ta lại có thể phân chia bất cứ cái gì ra nhỏ bao nhiêu cũng được? Để vượt qua mâu thuẫn này, chỉ có cách là hỏi Hoàng Tử Bé!

Và từ đâu đó xa xôi, một giọng nói nhẹ nhàng, trong trẻo và thân thiết vọng về:
- Nếu phần tử là đơn vị cấu thành nên con dao, thì không thể dùng con dao để thái phần tử ra như thái thịt được!
À, thì ra thế!

Hạt đó là tột cùng của nhỏ, là đơn vị của mọi đơn vị cấu tạo nên các sự vật - hiện tượng, là đơn vị trực tiếp cấu tạo nên mọi tồn tại khách quan, hợp thành nên Tồn Tại. Nó là đơn nhất, không thể phân chia được nữa, không thể có một lực lượng nào đủ khả năng phá hủy nó vì nếu nó bị phá hủy, ngay lập tức xuất hiện hư vô tuyệt đối, một Tồn Tại chẳng do cái gì làm nên cả. Nó chính là con số 1 (nếu nhìn trong thực tại ảo!) mà toán học đã phát hiện ra!

Tập hợp những con số 1 ấy, (sau khi đã "vật lý hóa" nó) được triết học gọi là “vật chất”!

Chúng ta tiếp tục cuộc thực nghiệm dở dang.

Chúng ta lấy một hạt của cây đó, cái mà nếu gieo xuống đất sẽ nảy mầm ra một cây giống cây đó, đem phân chia mãi tương tự. Cuối cùng chúng ta cũng sẽ thu được vô vàn những hạt nhỏ nhất, không thể phân biệt được, y hệt như những hạt thấy ở lần thực hành đầu tiên: những con số 1.

Rồi chúng ta lấy một cành khô, đã chết của cây đó thực hiện cuộc phân chia lần thứ ba, chúng ta lại thấy như thế.
Cuối cùng, chúng ta nhặt bất cứ cái gì, hú họa ở đâu đó trên Trái Đất này, thậm chí là ở bất cứ đâu trong Vũ Trụ để thực hành phân chia thì cũng vẫn thu được đúng kết quả của những lần thực nghiệm trước, chẳng khác gì sất.

Cuộc thực nghiệm đã hoàn thành. Sau này nó sẽ trở nên lừng danh và để lại dấu ấn không phai mờ trên con đường chúng ta đi.

Chúng ta rút ra được kết luận gì từ nó?

Thứ nhất là: Vì hạt vật chất (tạm gọi như thế đã, mai mốt tính sau!) không thể bị hủy diệt nên cũng không thể được tạo ra, không sống không chết hay sống chết là một; nó là một bất biến xét theo nghĩa ấy. Cũng theo nghĩa như vậy thì vì hạt vật chất là đơn vị nhỏ nhất tuyệt đối, có tính đồng nhất cũng tuyệt đối, do vậy lực lượng vật chất (tổng thành từ các hạt vật chất), đóng vai trò duy nhất làm nên toàn thể Vũ Trụ, cũng bất biến: Vật chất là duy nhất thì không thể có Hư Vô, và chính vì vậy mà cũng tuyệt đối phải bảo toàn về lượng!

Thứ hai là: Sự khởi đầu, trình diễn, kết thúc của cái cây nói riêng và toàn bộ mọi sự vật nói chung, cùng với sự biến đổi, tác động, chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng là sự biểu hiện, phản ánh và cũng chính là vật chất vận động: sự vật - hiện tượng nền tảng, vĩ đại.

Thứ ba là: Vật chất và vận động là hai mặt của một tồn tại duy nhất và thống nhất, là nguyên nhân và đồng thời cũng là kết quả của mọi sự khởi đầu, kết thúc, của mọi hành vi của tất cả các sự vật - hiện tượng, của cái thường biến. Vì vậy tất cả các sự vật - hiện tượng với mọi quá trình, mọi dạng biến đổi, mọi sự sinh ra hay mất đi đều là thể hiện của vật chất và vận động, đều là thể hiện của tồn tại và cũng chính là tồn tại, xảy ra trong Tồn Tại và Tồn Tại là một bất biến tuyệt đối nếu xét về mặt bảo toàn, mặt duy nhất và thống nhất của nó. Từ đó mà suy ra rằng Tồn Tại là vĩnh cửu, và luôn “đầy”.

* * *
Hạt vật chất được phát hiện trong cuộc thực nghiệm hoang tưởng trên, có thực trong Vũ Trụ hay không? Nó có thực trong hoang tưởng, đó là điều chúng ta xác nhận vô điều kiện!!! Còn nó có thực trong Thực Tại không thì có lẽ cần phải suy xét nhiều. Ngay từ “vật chất” còn chưa quan niệm được thì “hạt vật chất” càng không quan niệm được. Có một điều lạ lùng là hình như triết học cũng như khoa học phát triển rực rỡ đến hôm nay lại bắt đầu từ những cơ sở không quan niệm được ấy. Chẳng hạn như hình học Ơclít xuất phát từ một điểm không có kích thước ( cũng có nghĩa là không trình hiện được, do đó giống như một hạt Hư Vô nhưng "buộc phải" hiện hữu bởi ý chí tùy tiện và qui ước chủ quan cũa con người!!!). Cơ học Niutơn được xây dựng nên từ những chất điểm (không có thể tích mà có chất?), kỳ quặc không kém điểm hình học. Lý thuyết Dây, được coi là một trong những hy vọng của vật lý hiện đại, đã bắt đầu từ những cái còn kỳ quặc và “đáng sợ” hơn nhiều. Có sao đâu!!! Có lẽ Tạo Hóa (trong Kinh Vêđa gọi là Thần Sáng Tạo!) cho phép mọi thứ đều có khả năng và có quyền được tồn tại một cách… tương đối. Thế thì việc gì phải bận lòng với cái mà chúng ta nghĩ ra để làm nên câu chuyện này; một câu chuyện hoang đường?!

Nghĩ lại, chúng ta càng thấm thía lời khuyên của triết học Upanishad “…Đừng chạy theo từ ngữ nữa, chỉ mỏi miệng vô ích thôi!”. Ừ, không chạy theo nữa!...Nghỉ giải lao tý cho đỡ mệt, lát nữa...chạy tiếp!

Tiện đây, chúng ta sẽ kể một câu chuyện tiếu lâm có tựa đề:
TRỜI SINH RA THẾ.
Ngày xưa có một ông nhà giàu, sinh được hai cô con gái, cô chị được gả cho một anh nông dân quê mùa, cô em được gả cho một chàng hay chữ.
Một hôm, thong thả, bố vợ cùng hai con rể đưa nhau đi chơi. Ông bố nghe tiếng ngỗng kêu liền hỏi:
- Làm sao tiếng nó to thế nhỉ?
Chàng hay chữ nhanh nhảu:
- Trường cảnh tắc đại thanh.
Anh nông dân nói:
- Trời sinh ra thế!
Đi được một quãng, lại thấy con vịt ở dưới ao, ông bố lại hỏi:
- Không bơi mà tại sao nó vẫn nổi nhỉ?
Chàng hay chữ lại nhanh nhảu:
- Đa mao tiểu nhục tắc phù.
Anh nông dân lặp lại:
- Trời sinh ra thế!
Đi một quãng nữa, thấy hòn đá nứt đôi, ông bố lại hỏi:
- Tại sao đá lại nứt thế nhỉ?
Chàng hay chữ tiếp tục nhanh nhảu:
- Phi nhân đả, tắc thiên đả.
Anh nông dân chẳng nói hơn được gì:
- Trời sinh ra thế!
Đến lúc về nhà, ba bố con ngồi uống rượu. Ông bố khen chàng hay chữ và có ý chê anh nông dân dốt. Anh nông dân, rượu vào sương sương, tức mình, gây chuyện với chàng hay chữ:
- Tôi thì dốt thật, nhưng chú nói: “trường cảnh tắc đại thanh” là nghĩa làm sao?
Chàng hay chữ phổng mũi đáp:
- Nghĩa là: cổ dài thì kêu to.
Anh nông dân bắt bẻ:
- Thế con ễnh ương thì cổ đâu mà tiếng cũng to? - Rồi lại hỏi: - Chú nói “Đa mao thiểu nhục tắc phù” là nghĩa làm sao?
Chàng hay chữ đáp:
- Nghĩa là: “Nhiều lông ít thịt thì nổi.”
Anh nông dân lại bẻ:
- Thế thì cái thuyền lông đâu, thịt đâu mà cũng nổi? - Rồi hỏi tiếp: - Còn chú nói “Phi nhân đả, tắc thiên đả” là nghĩa làm sao?
Chàng hay chữ bực mình trả lời:
- Nghĩa là: “Nếu không người đánh thì trời đánh”. Thế mà anh cũng không hiểu nữa!
Anh nông dân điên tiết, nói lớn:
- Thế cái l… mẹ chú thì trời đánh hay người đánh mà cũng nứt đôi ra? Hay là trời sinh ra thế?
Lúc đó, ông bố vợ gật gù tấm tắc:
- Ừ, thì ra dốt đặc còn hơn hay chữ lỏng!
(Truyện cười dân gian Việt Nam)

Câu chuyện tiếu lâm vừa kể có buồn cười không? Có thể rất buồn cười mà cũng có thể chẳng đáng cười tý nào cả, thậm chí còn gây bực mình. Tất cả còn tùy thuộc vào hoàn cảnh và người nghe. Kể đúng chỗ thì dễ cười, trái chỗ thì thành tục tĩu. Trong khi những người xuề xòa dễ dãi, bình dị dân dã rất thích nghe, cười hô hố, thì những người ngay thẳng, đàng hoàng chỉ tủm tỉm, còn những người mực thước, câu nệ sẽ nhăn mặt khó chịu. Đời là thế, cũng là tồn tại thiên biến vạn hóa, khác sao được!

Đối với chúng ta thì câu chuyện tuyệt hay! Vừa có tính bông phèng giải trí làm tăng tuổi thọ vừa có tính triết lý “hơi bị sâu”. Nó cho chúng ta thấy cái phong phú, muôn màu muôn vẻ của sự vật - hiện tượng: Nhiều sự vật khác nhau gây ra hiện tượng giống nhau; nhiều hiện tượng khác nhau có nguyên nhân từ cùng một sự vật. Cả hai người con rể đều trả lời đúng cả. Một người tìm lời giải thích thỏa đáng cho từng sự vật - hiện tượng cụ thể, người nghe thỏa mãn vì học hỏi được thêm từ những lý giải ấy. Một người kém hiểu biết hơn, đã trả lời một cách “trớt quớt”, chẳng làm ai vừa lòng vì chẳng hiểu được gì, nhưng lại khái quát nhất, xác đáng nhất, như một chân lý tuyệt đối, và vô tình đã nói đến cái bất biến cao độ.

Bất biến và thường biến là hai khái niệm mà con người đã “gặt hái” được từ sự nhận thức thế giới khách quan. "Sự kiện" Vũ Trụ vừa bất biến vừa thường biến, vừa có thể là cả hai mà cũng có thể không phải cả hai, là quan niệm "phiêu lưu" nhất cho đến của chúng ta và được hiểu một cách...tùy thích(!). Nếu cho nó là vừa bất biến vừa thường biến thì nhờ bất biến mà thường biến triển khai được. Trong cái thường biến ẩn tàng cái bất biến; bất biến được biểu hiện ra nhờ thường biến và thường biến để duy trì cái bất biến. Cũng có hai “kiểu” bất biến: tương đối và tuyệt đối. Bất biến tuyệt đối là sự thực khách quan, bao hàm cả không gian và thời gian. Đó là quan niệm rất khó lòng ...quan niệm, hoặc có khi là không thể quan niệm nên không cần biện minh và cũng đừng có ai tò mò cố tìm cách biện minh, chỉ tổ nhức đầu vô ích thôi!

Đối với cái bất biến tuyệt đối, cái cơ bản và cũng là nền tảng, thì sự thường biến của nó, với vai trò như một mặt, một thuộc tính, chỉ mang tính tương đối (như Phật Giáo nói hơi quá: là một sự giả hợp). Nhưng nói thế đừng nghĩ chắc chắn phải "bất di bất dịch" là như thế, vì nếu xem xét ở một bình diện khác, “thấp hơn” thì phải đảo lộn lại quan niệm: bất biến mới là tạm thời, cục bộ địa phương, là tương đối; còn thường biến mới là bao trùm toàn diện, vĩnh viễn và tuyệt đối. Ai muốn hiểu sao thì hiểu, quá mệt!...Nghỉ giải lao tiếp!

Chúng ta sẽ thêm hai câu chuyện tiếu lâm nữa cho bớt căng thẳng:
CON VỊT HAI CHÂN
Có một anh lính, tính hay nịnh quan, hễ trông thấy cái gì hơi khác thường một chút là vơ lấy tán luôn.
Một hôm, quan đang ngồi ở công đường, anh ta đứng hầu bên cạnh, trông ra thấy con vịt đứng ngủ, co một chân lên. Anh ta lấy làm lạ, tưởng con vịt mất một chân, liền bẩm:
- Bẩm quan lớn, con vịt …
Không ngờ con vịt thức dậy, buông chân kia xuống.
Quan quay lại hỏi:
- Con vịt làm sao?
Anh ta luống cuống không biết nói sao, đáp liều:
- Bẩm, con vịt … có hai chân ạ!
Quan nghe câu nói vớ vẩn, mắng:
- Vịt chẳng hai chân thì mấy chân?
Rồi sai lính đè cổ anh nịnh ra, đánh cho một trận.
(Truyện cười dân gian Việt Nam)

THƠM RỒI LẠI THỐI
Hai anh đại nịnh ngồi hầu chuyện quan lớn. Bất thần, cụ đánh một cái trung tiện. Một anh giả vờ lắng nghe rồi nói:
- Ôi! Nghe như tiếng đàn tiếng sáo!
Một anh hếch mũi lên ngửi rồi nói:
- Chao ơi! Thoang thoảng thơm như hương hoa lan.
Cụ lớn xịu mặt, có ý buồn, bảo:
- Ta nghe nói trung tiện là uế khí, nó ra ngoài có tiếng đục và mùi thối mới phải, chứ nó nghe réo rắt mà lại có mùi thơm, ta e rồi không thọ được bao lâu nữa!
Một anh nghe nói vậy, vội đưa tay lên như bắt hơi, hít đi hít lại, rối bẩm:
- Dạ bẩm, bây giờ đã có mùi thối ạ!
Anh kia cũng vờ khịt luôn hai ba cái, nói tiếp:
- Bẩm quan, bây giờ thì thối thật, quá thối!

* * *
Vì sao Tồn Tại được khẳng định? Vì có thường biến và bất biến! Vì sao lại là thường biến và bất biến? Vì có Thượng Đế! Thượng Đế là ai? Là Đấng Sáng Tạo! Đấng Sáng Tạo là ai? Là Tạo Hóa! Tạo Hóa là ai? Là Tồn Tại! Thế Tồn Tại? Vô nghĩa!

Một khẳng định lại vô nghĩa? Vì Tồn Tại vừa là thế này, vừa là thế kia, vừa là cả hai mà cũng không phải cả hai. Nó thường biến và bất biến khi có nhận thức về nó và đồng thời không phải cả hai khi nó tự do, không bị "ràng buộc" bởi nhận thức. Ở ngoài ý niệm, Tồn Tại là vô thủy vô chung, hằng định. Ở trong ý niệm, nó trở nên lung linh huyền diệu và hồn nhiên biết chừng nào! Nó ở ngoài không gian và thời gian nên nó không di dời mà cũng không nhanh chậm; không có quá khứ lẫn tương lai, vì vậy nó là bất biến; nó ở trong không gian và thời gian nên nó di dời, có quá khứ và tương lai, vì vậy nó là thường biến; nó là không gian và thời gian, vì vậy nó là cả hai mà cũng không phải cả hai. (Chúng ta vừa viết ra những dòng suy tưởng "cực kỳ" mà chính bản thân mình đã không dám đọc lại. Bởi vì nếu đọc lại, với bộ não đang "hoang tưởng" quá căng thẳng, chúng ta dễ dàng...phát điên. Ha, ha...ha...!).

__________________________________



Mời xem:

LỜI PHÂN TRẦN

PHẦN I: CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ