THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG 34/b




PHẦN IV:     BÁU VẬT

“Lạc vào cõi mộng Tự Nhiên
Thẫn thờ một bóng giữa miền Siêu Linh
Nhặt lên hòn ngọc bí huyền
Mắt ai thăm thẳm đắm nhìn mắt ai.”
Thầy Cãi

CHƯƠNG I: TRỐNG ĐỒNG

“Khi đã biết sự thực của vật thể, ta sẽ thấy rằng thật vô lý khi tôn thờ các sản phẩm cô lập của dòng chảy không ngừng nghỉ của sự biến hóa, làm như chúng là vĩnh cửu và đích thực. Đời sống không phải là vật thể hay dạng của vật thể mà là một sự vận động liên tục hay chuyển hóa”
S. Radhakrishnan


(tiếp theo)
Cũng bằng phương pháp (thô sơ) đó kết hợp với những kết quả quan sát (thiên văn, khí tượng) khác, người xưa xác định được độ dài thời gian của 1 tiếng trong 24 tiếng ngày - đêm, đếm được ngày của 1 năm… Có thể thời đó các nhà thông thái Việt cổ đã xác định được số ngày của một năm là 365 ngày hơn một chút (kết quả đo đạc thời đó có thể đã đạt được độ chính xác là 365 và ¼ ngày. Số liệu ngày nay là 365,2422 ngày). Đông chí là thời điểm Trái Đất gần Mặt Trời nhất và đối ứng với nó là Hạ chí, thời điểm Trái Đất ở xa Mặt Trời nhất trong năm (nếu nhìn từ vùng nhiệt đới thuộc bán cầu Bắc). Điểm Hạ chí chia 1 năm làm 2 phần bằng nhau. Trên mỗi phần đó, người ta xác định được một điểm, lần lượt gọi là Xuân phân (giữa mùa Xuân) và Thu phân (giữa mùa Thu). Tại hai thời điểm đó, thời gian ban ngày và thời gian ban đêm bằng nhau. Từ Xuân phân qua Hạ chí đến Thu phân, ngày dài hơn đêm và ngược lại, từ Thu phân qua Đông chí đến Xuân phân, ngày ngắn hơn đêm. Sau khi đã có 4 thời điểm cơ bản để phân định một năm thành 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông; dựa trên sự “chỉ giáo” của hình tượng Lạc Thư và kết quả quan sát thực tại, người xưa qui ước thêm 4 thời điểm quan trọng nữa để ấn định độ dài thời gian của mỗi mùa, gồm: Lập Xuân, Lập Hạ, Lập Thu, Lập Đông. Từ đó mà có cụm từ “Tứ thời bát tiết” để chỉ chu kỳ chuyển hóa 4 mùa của một năm.


Tuy nhiên, có thể ước đoán rằng trước khi phân định thời gian của 1 năm một cách “rạch ròi” cho “Tứ thời bát tiết”, người xưa đã phải tiến hành phân phối một cách “lý thuyết” số ngày trong năm ra bốn phần sao cho vừa hài hòa vừa đầy đủ, phù hợp với kết quả đo đạc thực tế nhất.
Tương tự như việc phân chia thời gian cho một ngày, quá trình lao động trồng trọt, chăn nuôi cũng đòi hỏi một cách bức thiết việc lập ra những đơn vị thời gian lớn hơn cho 1 năm, đáp ứng tốt hơn, phù hợp hơn trong việc đồng áng, chăn nuôi như: thời điểm gieo, trồng, cấy, gặt, thu hoạch mùa màng, gia súc… Đơn vị tuần và tháng ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu đó.
Ngày là đơn vị thời gian nhỏ nhất của 1 năm. Khi đã biết một năm gồm 365 ngày hơn một chút, thì chọn đơn vị có số ngày là bao nhiêu để tổng số các đơn vị đó bằng đúng thời gian của 1 năm, hơn nữa, còn có thể phân ra đồng đều cho 4 mùa và số đơn vị đó phải chẵn để có thể phân đôi lập thành hai nửa đối ứng theo quan niệm lưỡng phân lưỡng hợp? Những bước đi đầu tiên trong công cuộc tìm tòi, lựa chọn đã dẫn các nhà thông thái Việt cổ đến con số 7. Thật là kỳ diệu, con số 7 thiêng liêng tỏ ra là phù hợp nhất trong việc chọn một đơn vị thời gian lớn hơn ngày cho 1 năm! Có thể lúc đó, các nhà thông thái Việt cổ đã coi sự kiện chỉ có thể chọn con số 7 là một minh chứng hùng hồn cho tính đúng đắn của cái quan niệm triết học về thế giới khách quan mà họ tin tưởng. Lựa chọn đó là duy nhất, có tính định mệnh và như thế hóa ra là không thể lựa chọn. Nếu điều vừa khẳng định là sai thì phải cho rằng đó là một ngẫu nhiên thuộc hàng huyền bí nhất trong số những huyền bí!
Thế là đơn vị thời gian gồm 7 ngày được xác lập và có tên gọi là “Tuần”. Với 52 tuần, sẽ tương đương với số ngày là 364 ngày. Đó là số ngày mà thuở ban đầu, khi chưa có khả năng đo đạc chính xác hơn, người xưa cho là của đúng một năm. Cũng với 52 tuần, người xưa chia cho 4 mùa và được thời gian của mỗi mùa gồm 13 tuần, 13 tuần mặc nhiên trở thành một đơn vị thời gian mới mà sau này được gọi là “Quý”. Thế nhưng quá trình áp dụng vào thực tiễn đã chỉ ra những sai lệch, đồng thời việc đo đạc thời gian đã đi đến kết luận không thể chối cãi được là số ngày của một năm phải là 365 ¼ ngày chứ không phải là 364 ngày. Tình hình buộc người xưa phải điều chỉnh lại cho phù hợp với thực tại. Vậy thì họ đã điều chỉnh và qui ước lại như thế nào? Chúng ta lại chỉ có thể ngộ thấy những điều họ làm trong “hành thiền” khi đã đạt đến trạng thái tâm thần “siêu thức” (hay vô thức, “siêu mê muội”?!) mà thôi!
Đến bàn tay còn có ngón ngắn ngón dài thì việc số ngày của một năm “lý thuyết” chênh lệch so với số ngày của một năm thực tiễn với chỉ 1 ¼ ngày là điều “chả có gì là ầm ĩ”. Đơn giản thôi, thiếu thì bù thêm vào. Trước, một năm gồm 52 tuần thì bây giờ, một năm sẽ gồm 52 tuần + 1 ngày. Ngày đó không phải là ngày của năm mà là ngày của Trời - Đất “cho” để đánh dấu năm cũ qua đi và năm mới bắt đầu. Nó có tính thiêng liêng. Nếu thế nó phải được đặt vào thời điểm nào trong chuỗi bốn mùa xoay vần của một năm? Vạn vật - hiện tượng đều phải trải qua quá trình sinh ra - lớn lên - suy tàn - chết đi. Tương tự, quá trình của một năm cũng thế và thể hiện ra thành 4 mùa: mùa Xuân là hồi sinh, cây cỏ đâm chồi nảy lộc, mùa Hạ là sung mãn, cây trái sum xuê tràn đầy sinh lực, mùa Thu là già lão, lá vàng rụng trơ cành mệt mỏi, mùa Đông là suy tàn, cạn kiệt, băng giá mất hết sinh khí. Như một cuộc đời, một năm bắt đầu bằng mùa Xuân và kết thúc bằng mùa Đông. Vậy thì ngày thêm vào ấy phải là ngày bắt đầu của mùa Xuân, ngày báo hiệu một năm mới “ra đời”. Ngày đó đương nhiên là ngày chủ của những ngày tiết khí (tứ thời bát tiết) và chính là ngày Lập Xuân (đồng thời cũng là lập Niên). Đó là “tiền thân” của ngày Tết Nguyên Đán của hầu hết các dân tộc Á - Đông. Đến đây, một năm vẫn được coi là 52 tuần, nhưng tuần đầu tiên của nó có 8 ngày.
Sau khi được bù thêm 1 ngày thì một năm vẫn còn thiếu ¼ ngày. Không thể tùy tiện bù nốt ¼ ngày cho nó vì đơn vị nhỏ nhất chỉ có thể là 1 ngày (thuận tiện cho việc theo dõi, tính toán, ghi chép, lưu nhớ, điều chỉnh lịch pháp…). Biết rằng một năm thiếu ¼ ngày thì sau 4 năm sẽ thiếu đúng 1 ngày. Có lẽ phát huy cái quan niệm cho rằng mọi sự vật - hiện tượng đều phải có 4 trạng thái, 4 quá trình, 4 phương chiều… mà người Trung Hoa sau này gọi tổng quát là Tứ tượng (ngày có 4 buổi sáng, chiều, tối, khuya; năm có 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông…) mà người xưa qui ước 4 năm là một “Hành”, Hành đó trải qua 4 giai đoạn thì kết thúc, và phải thêm vào đó 1 ngày làm ngày đánh dấu sự kết thúc của nó. Ngày đó cũng được người xưa cho là thiêng liêng nhưng không vui mà “bùi ngùi” tưởng nhớ về một thời đã qua. Chắc rằng trong ngày đó, mọi gia đình Việt cổ đều trọng vọng, tôn thờ, cúng kiếng tổ tiên, những người thân đã khuất, trời thiêng đất lành… Cả triều đình cũng phải tổ chức thờ cúng tri ân tổ tiên thờ cúng vào ngày đó và ngày đó cũng đóng vai trò như ngày Quốc giỗ. Nguồn gốc của tục thờ cúng tổ tiên có lẽ bắt đầu như thế chăng?
Chúng ta cho rằng nếu thực sự vào thời Hùng Vương có một lịch pháp như thế thì đó là loại lịch pháp vừa giản dị, vừa đẹp đẽ bởi sự hợp lý của nó. Năm thứ tư thì vẫn gồm 52 tuần nhưng tuần đầu và tuần cuối năm gồm 8 ngày, các tuần còn lại vẫn “u như kỹ” (y như cũ!).
(Nói thêm, ngày nay thì một năm không phải thiếu ¼ ngày mà chỉ là 0,2422 ngày. Vậy sau 4 năm, với lịch pháp trên, chỉ thiếu có 0,9688 ngày. Nghĩa là nếu sau 4 năm thêm vào 1 ngày thì bị dư 0,0312 ngày. Sau 25 lần 4 năm (hay sau 100 năm) sẽ dư 0,78 ngày, sau 900 năm sẽ dư 7,02 ngày… Sai số như vậy thì vẫn là… chính xác! Muốn chính xác hơn nữa, vì sau 100 năm lại cộng thêm 1 ngày (ngày đưa tiễn thế kỷ cũ, rước đón thế kỷ mới) Lúc này, không dư nữa mà thiếu 1 – 0,78 = 0,22 ngày. Như thường lệ, sau 28 năm (7 lần 4 năm) sẽ dư 0,0312 x 7 = 0,2184 ngày, do đó, thiếu thừa bù cho nhau và thực tế, thời gian tính theo lịch pháp so với thời gian thực tại chỉ còn thiếu 0,22 – 0,2184 = 0,0016 ngày. Nếu tính tiếp thì hết thế kỷ này, sau khi thêm 1 ngày, chỉ còn thiếu 0,44 ngày và sau một thế kỷ nữa sẽ thiếu 0,7832 ngày rất gần với 0,78 là số ngày thiếu sau thế kỷ được chọn mốc tính toán!!!).
Tuy nhiên, cách tính lịch đó dù là rất hợp lý nhưng chưa hợp tình. Đối với các nhà thông thái chuyên theo dõi thời gian, làm công việc biên niên sử, thì không có vấn đề gì. Nhưng đối với đời sống lao động sản xuất, sinh hoạt xã hội thì vẫn chưa hoàn toàn hợp tình hợp lý. Nếu tính toán theo đơn vị “quý” thì “quá  hớp”, tính theo đơn vị “ngày” luông tuồng thì nhớ hết nổi, nhất là rất khó xác định thời điểm những đêm trăng tròn trăng khuyết, trăng lu trăng tỏ, rất cần cho những hoạt động lao động, sinh hoạt về đêm của dân cư. Còn tính theo đơn vị “quí” thì nhiều khi “lâu quá”. vậy cần phải có thêm một đơn vị thời gian nữa ở giữa “tuần” và “quý”, gọi là tháng.
Để thực hiện điều đó, như “thông lệ”, các nhà thông thái nhanh nhẹn gom 4 tuần thành một đơn vị mới và gọi là “tháng” (có 28 ngày, riêng tháng đầu năm và tháng cuối năm có 29 ngày). Vì 1 năm có 52 tuần nên phân ra sẽ được 13 tháng. thế nhưng nếu 1 năm có 13 tháng thì 1 quý sẽ có số tháng là 3,36 tháng. Một đơn vị thời gian mang số lượng không “lành lặn” như vậy thật khó chịu cho thực tiễn sử dụng và thao tác. Còn nếu chọn 1 quý gồm 3 tháng thì có vẻ đẹp đấy nhưng dư mất đúng 1 tháng (28 ngày) không biết “quẳng” vào đâu.
Trước tình thế nan giải ấy, các nhà làm lịch pháp Việt cổ có lẽ đã linh động, chọn cách “dĩ hòa vi quí” sau đây:
Chọn một năm gồm 12 tháng để mỗi quý có “chẵn” 3 tháng. Lấy tháng bị dư (gồm 28 ngày) phân đều cho 4 quý và như vậy, mỗi quý phải “gánh” thêm 7 ngày (1 tuần). Đã qui ước mỗi quý chỉ gồm 3 tháng thôi, nên 7 ngày đó phải phân ra cho 3 tháng, nghĩa là có 2 tháng được thêm 2 ngày và tháng thứ 3 được thêm 3 ngày. Thêm cách nào cho hài hòa đây? Có thể là thế này: bắt đầu từ tuần thứ nhất của tháng thứ nhất trong năm, cứ 2 tuần (14 ngày) thì thêm 1 ngày, nghĩa là mỗi tháng được thêm bình quân 2 ngày (thành 30 ngày, tạm chưa tính ngày Tết và ngày bù ở cuối năm thứ tư). Trong 2 ngày đó, ngày ở giữa tháng gọi là ngày “vọng” (là ngày rằm, trăng tròn), ngày ở cuối tháng gọi là ngày “sóc” (là ngày không trăng). Những ngày thêm vào được qui ước không thuộc về tuần nào mà là ngày của tháng nên các tuần vẫn tính là 7 ngày (nghĩa là một tháng vẫn gồm 4 tuần nhưng thêm một ngày vọng, bốn ngày sóc). Sau khi thêm như thế, vẫn còn dư 4 ngày. 4 ngày này được phân cho 4 quý, xếp ở đầu mỗi quý và gọi là ngày của quý (nghĩa là 1 quý vẫn có 3 tháng (lúc này gồm 90 ngày) và 1 ngày đầu quý). Những ngày đầu quý có tên gọi lần lượt là: Lập Xuân, Lập Hạ, Lập Thu, Lập Đông. Những ngày giữa quý (cũng là ngày vọng) có tên gọi lần lượt là: Xuân Phân, Hạ Chí, Thu Phân, Đông Chí. Vô hình chung, các tháng đầu quý có tổng cộng 31 ngày, riêng tháng 12 (cuối Quý tư) vào năm thứ tư cũng có 31 ngày và tháng 1 vì có sẵn ngày Tết nên có 32 ngày. Ước đoán rằng tất cả những ngày được thêm vào nói trên, theo quan niệm của người cổ xưa đều là những ngày linh thiêng, được Trời - Đất ban cho nên cũng trở thành những ngày cúng vái cần xin, lễ lạt hội hè. Đầu tháng 1 có 2 ngày như thế gọi là Mùng một Tết, mùng 2 Tết, sau này thêm một ngày nữa gọi là Mùng ba Tết (ngày mở đầu năm, ngày mở đầu quý, ngày mở đầu tháng đầu tiên của năm).
Lịch pháp nói trên được mô tả ở hình 11 với những họa tiết hoa văn thời Hùng Vương cho có vẻ… cổ đại một chút.
Cần nhấn mạnh rằng việc xác định và theo dõi lịch trình thời gian theo cách đó đã phản ánh đúng đắn được sự chu chuyển đều đặn của thời tiết, bốn mùa và do đó mà về mặt này cũng như về tính giản dị, hợp lý trong việc biên niên các sự kiên lịch sử, nó ưu việt hơn loại lịch gọi là lịch Trăng. Loại lịch pháp được xây dựng nên trên cơ sở quan sát sự vận hành của Mặt trời quanh Trái đất (thực chất là ngược lại!) được gọi là lịch Mặt trời hay lịch Xuân Phân, nhưng đối với chúng ta thì vẫn thường gọi là Dương lịch để phân biệt với lịch trăng (lịch được xây dựng nên từ sự quan sát qui luật vận động của Mặt trăng đối với Trái đất), còn gọi là Âm lịch, dựa theo quan niệm Âm - Dương của người Trung Hoa (Mặt trời là dương còn Mặt trăng là âm). Tuy nhiên, sự ảnh hưởng của Mặt trăng đối với môi trường Trái đất không phải là không đáng kể. Dù vào thời xa xưa (và nhiều điều đến ngày nay cũng vậy), ảnh hưởng đó nằm trong vòng huyền bí, nhưng người ta đã biết quan sát sự biểu hiện của Trăng và bầu trời đêm để dự đoán sự biến đổi thời tiết khí hậu trong tương lai gần và nhất là xác định sự lên xuống của thủy triều.
Thời hồng hoang tối cổ, khi còn ở trạng thái bầy đàn, ăn lông ở lỗ, chắc rằng con người không có nhu cầu bức thiết trong việc xác định chính xác thời gian và lưu nhớ thời điểm xảy ra của những sự kiện đã trôi qua. Quá trình mưu sinh bằng săn bắt hái lượm trải qua những thời đoạn khó khăn đã buộc con người phải đoán định được dù có thể chỉ là áng chừng những đêm trăng sáng, những lúc thủy triều lên, xuống, những ngày mưa tháng nắng, khi nào cây cối ra hoa, trái chín…
Hình 11: Lịch pháp thời Hùng Vương theo tưởng tượng của Thầy Cãi
Từ đó mà con người biết đến thời gian, xây dựng nên những lịch trình giản đơn về sự xuất hiện và mất đi, về những biến đổi và chuyển hóa của các sự vật - hiện tượng mà họ quan tâm (do sự tác động của chúng đến đời sống của họ) trong thiên nhiên. Nhất là khi con người chuyển sang lấy trồng trọt - chăn nuôi làm phương thức sống chủ yếu thì việc phải xác định rành mạch và chính xác thời gian xuất hiện những loại hình thời tiết - khí hậu khác nhau để thực hiện các công việc phù hợp là không thể thiếu được.
Các nhà nghiên cứu hiện nay cho rằng Âm lịch (lịch trăng) ra đời trước Dương lịch (lịch Xuân Phân) trong lịch sử. Thế nhưng, niên đại ra đời của những loại Âm lịch cổ xưa nhất trên thế giới vẫn chưa được biết chắc chắn. Theo truyền thuyết được các sử gia cổ đại ghi lại thì từ trước thời Hoàng Đế (khoảng năm 2697 - 2597 TCN), người Trung Hoa đã biết dùng Âm lịch và chính Hoàng Đế đã cho dựng tháp để quan sát bầu trời sao mà chỉnh sửa hệ Âm lịch đó. Tương truyền, đến đời vua Thuấn (2255 - 2205 TCN) cũng đã từng sửa lại Âm lịch. Còn người cổ Ai Cập, thì được cho rằng đã định hình hệ Âm lịch của họ vào khoảng năm 2000 TCN. Tiếp đến là người Do Thái cổ, người Hy Lạp cổ, người Ả Rập cổ. Đến khoảng năm 800 TCN, người Etruscan đã tiếp thu Âm lịch của người Do Thái cổ và người Hy Lạp cổ, áp dụng nó trên vùng Tuscany thuộc miền Bắc Ý ngày nay. Hệ Âm lịch này lại được lại được người La Mã cổ tiếp thu, sử dụng sau khi đã chinh phục người Etruscan vào cuối thế Kỷ III TCN.
Có một điều rất đáng chú ý: Âm lịch (nói chung) đều được cho là di sản của những nền văn minh cổ đại - những trung tâm văn minh lớn nhất và xuất hiện sớm nhất trên thế giới. Tuy nhiên, lạ lùng là trong di tích của những nền văn minh cổ sơ ấy, hầu như không thấy (ngay cả khi đã xuất hiện số đếm và phép tính (cộng, trừ…)) sự biểu hiện của Âm lịch như một công cụ dùng để biên niên hay dưới dạng những biên niên. Hoặc là thời đó chưa xảy ra nhu cầu phải biên niên một cách cụ thể và chính xác các sự kiện để lưu truyền cho đời sau, hoặc Âm lịch còn ở dạng sơ khai và chưa có khái niệm về “năm”, về số lượng năm, tháng đã trôi vào quá khứ?
Vì sao lại có hiện tượng đó? Chúng ta đoán rằng thuở ban đầu, cái đơn vị thời gian trực giác nhất đối với con người là “ngày”. Tiếp đó, đơn vị thời gian dễ xác định rõ ràng được là khoảng thời gian gồm những ngày vào ban đêm có trăng, hay nói chính xác hơn là số (ngày) đêm giữa hai lần trăng tròn. Quá trình quan sát sự tròn, khuyết của trăng rồi cả bầu trời đêm sao đã đưa con người đến khái niệm “tháng” trăng và một tháng trăng thì gồm trung bình 29,5 ngày. Và chỉ đến thế thôi chứ chưa có khái niệm “năm” trăng, vì không thể cảm nhận dù là tương đối được bằng trực giác một khoảng thời gian không có một mốc so sánh nào như thế. Vậy, cần phải phán đoán rằng trước khi xuất hiện Dương lịch, Âm lịch chỉ mới ở dạng sơ khai có vai trò đơn giản như một lịch trình chuyển biến một cách chu kỳ của Trăng, biểu hiện ra bằng quá trình biến dạng tròn - khuyết của nó, để dựa trên cơ sở đó mà con người có thể phán đoán, xác định những biểu hiện thiên nhiên có liên quan. Không thể dùng nó để xác định hiện tượng chu chuyển lớn hơn nhưng có vẻ cũng rất đều đặn của thiên nhiên là thời tiết bốn mùa (có thể sơ khởi, con người chỉ phân biệt ra 2 mùa: nóng nực, ấm áp và mát mẻ, lạnh giá?), nếu không liên tục bổ sung, điều chỉnh lịch trình đó. Chính sự bất ổn định của lịch trình Âm lịch đã làm cho nó không thể đáp ứng thỏa đáng yêu cầu của công tác biên niên.
Sự đòi hỏi phải có một công cụ tính thời gian xác định chính xác và ổn định khoảng thời gian tồn tại của từng mùa trong 4 mùa thời tiết và quá trình chuyển biến tuần hoàn của 4 mùa đó, cũng như dùng để “đếm” thời gian phục vụ cho việc biên niên các sự kiện đã dẫn đến nhiều khám phá về mối quan hệ khăng khít giữa Trái đất và Mặt trời để từ đó mà sáng tạo ra Dương lịch. Dương lịch ra đời trên cơ sở đã xác lập khái niệm “năm”. Năm là gồm 365,25 ngày (chọn số nguyên ngày là 365 rồi đưa ra một nguyên tắc điều chỉnh cho phù hợp với thời gian thực tại). Đó là số ngày lần lượt xuất hiện đủ 4 mùa và đóng vai trò là thời gian của một chu kỳ vận động của thời tiết Trái đất (Trái đất quay đúng một vòng xung quanh Mặt trời). Có thể người Ai Cập cổ đại đã xác định được lượng thời gian này qua việc quan sát sao Thiên Lang (Sirus) - bằng khoảng thời gian giữa hai lần mọc của ngôi sao này. Thời điểm sao Thiên Lang mọc cũng là lúc nước sông Nin bắt đầu dâng!
Nếu quan niệm một lịch pháp hoàn chỉnh phải thỏa mãn được đòi hỏi phản ánh chính xác thời tiết và có công dụng biên niên thì rõ ràng Dương lịch ra đời trước Âm lịch. Chính nhờ có Dương lịch đóng vai trò như sự “cứu rỗi” mà lịch trình Âm lịch đã thăng hoa lên hoàn thiện thành một lịch pháp thực thụ với một năm Âm lịch là 354 ngày (đúng ra là 354,36708 ngày) kèm theo qui tắc bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với thời tiết 4 mùa (và hơn nữa là phù hợp với Dương lịch).
Thế thì Dương lịch ra đời lần đầu tiên từ khi nào và ở đâu? Theo lịch sử chính thống (được đa số nhà sử học thừa nhận) thì bộ Dương lịch mà toàn thế giới hiện đang sử dụng, có khởi thủy bắt nguồn từ một lịch trình đếm thời gian theo sự vận động tương đối giữa Trái đất và Mặt trời, xác định được chu kỳ vận hành của thời tiết của người Ai Cập cổ đại. Nhờ phát hiện một cách chính xác thời lượng không đổi của chu kỳ đó (cũng là thời lượng Trái đất quay hết đúng một vòng quanh Mặt trời, mà theo quan niệm bấy giờ là Mặt trời quay quanh Trái đất) là 365 ngày, 5 giờ, 48 phút, 48 giây (viết dưới dạng thập phân là 365,245199 ngày), các nhà thiên văn cổ Ai Cập đã chế định được một lịch pháp Dương lịch sơ khai tương đối chuẩn xác để (có lẽ) với công dụng ban đầu là làm cơ sở cho việc cải tiến Âm lịch. La Mã mới là quốc gia chính thức sử dụng bộ lịch pháp Dương lịch sớm nhất. Vào khoảng năm 46 TCN, để cho ngày tháng phù hợp với sự vận hành, chu chuyển của các mùa thời tiết trên Trái đất, người La Mã đã thay thế Âm lịch Etruscan bằng loại Dương lịch này. Lịch này còn được gọi là lịch Julian. Tên gọi Julian có xuất xứ từ Juliuxơ Xêđa (Julius Caesar, 100 - 44 TCN), tên vị quan chấp chính của nhà nước La Mã đồng thời là một thiên tài quân sự thế giới, sau trở thành độc tài và cuối cùng bị Brútuxơ và Cátxiuxơ - những kẻ thân tín nhưng lại phản bội Xêđa - đâm chết trong khi ông đang chủ trì buổi họp của Viện nguyên lão (một tổ chức tương tự Quốc hội ngày nay). Theo lịch Julian mỗi năm bình thường có 365 ngày, và cứ 4 năm có 1 năm nhuận (thêm một ngày vào tháng 2 là tháng lúc bình thường chỉ có 28 ngày, tức mỗi năm bình quân có 365,25 ngày).
Sự sai lệch giữa số ngày bình quân trong một năm của lịch Julian so với số ngày thực tế của một năm làm cho sự đếm thời gian theo lịch đó từ năm 46 TCN đến năm 1582 chậm mất 12,70028 ngày. Đó là lý do vào năm 1582, Giáo hoàng La Mã khi đó là Gregory (1502 - 1585) đã cải tiến lại lịch Julian mà sau này mang tên gọi mới là Lịch Gregorian. Từ đó, lịch Gregorian bắt đầu được áp dụng ở Tây Âu. Theo lịch này thì mỗi năm bình thường vẫn là 365 ngày, nhưng cứ 400 năm thì nhuận 97 ngày (vẫn thêm 1 ngày vào tháng 2). Như vậy 1 năm bình quân theo lịch Gregorian chỉ chậm hơn 1 năm thực tế có 0,00301 ngày, và phải sau 4000 năm mới chậm hơn 1,204 ngày. Với độ chính xác như thế nên lịch Gregorian đã trở thành lịch chung của toàn thế giới ngày nay.
Đặc biệt, Dương lịch cũng đã từng được sử dụng ở miền Bắc - Ấn Độ từ thế kỷ I trở về trước. Bộ Dương lịch này qui định mỗi năm có 12 tháng, mỗi tháng có 30 ngày, và cứ 5 năm lại nhuần 1 tháng, tức bình quân mỗi năm của lịch này có đến 366 ngày, kém chính xác hơn cả lịch Julian của người La Mã. Đó có thể là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc từ thế kỷ I trở về sau, Dương lịch Ấn Độ bị Âm lịch của người Saka thay thế sau khi bị bộ tộc này xâm nhập vào miền Bắc - Ấn.
Còn theo các nhà sử học Trung Quốc thì Khổng Tử có nhắc đến lịch đời nhà Hạ. Nhưng lịch đời nhà Hạ “mặt mũi” như thế nào thì đời sau không ai biết. Trước đó rất lâu, ở tận thời vua Nghiêu, ông này đã định ra phép đo lường để tính Âm lịch, nhưng cũng chỉ “nghe nói thế” chứ chưa tìm ra bất cứ dấu di tích nào mách bảo điều đó. Loại Âm lịch được biết đến sớm nhất ở Trung Quốc là lịch đời Ân - Thương. Lịch đời Thương chia một năm thành 12 tháng, tháng đủ có 30 ngày, tháng thiếu có 29 ngày và đã biết điều chỉnh cho phù hợp với lịch trình thời tiết bằng cách thêm tháng nhuận. Lúc đầu, tháng nhuận để ở cuối năm gọi là tháng 13, về sau nó được để ở giữa năm. nếu quả đúng như thế thì cần phải cho rằng trước đó, người Trung Hoa cổ đã phải biết đến khái niệm sơ khởi cũng như thời lượng của “năm” (Mặt trời), nghĩa là đã phải có một lịch trình thời gian nào đó về sự chu chuyển, biến hóa của thời tiết, có bản chất Dương Lịch. Bởi vì khi đã biết thời lượng theo đơn vị ngày của một quá trình chuyển hóa thời tiết và quá trình đó luôn là sự lặp đi lặp lại thì “tội gì” không dựa luôn vào nó (như một hệ tọa độ thời gian) để xác định những thời khoảng biến đổi, xuất hiện các tiết khí trong quá trình đó và chỉ việc đếm số những thời lượng rồi khắc ghi lại là có được ngay một “biên niên sử”?
Điều lạ lùng nhất là sau khi đã biết đến lịch trình vận động của thời tiết Trái đất một cách chính xác thì các dân tộc Á Đông lại không “tiện đà” xây dựng và sử dụng một hệ lịch vừa giản tiện hơn, vừa hợp lý hơn mà lại chỉ dựa vào đó để tìm cách điều chỉnh theo từng thời đoạn qui ước đối với Âm lịch cho phù hợp với chu kỳ biến chuyển thời tiết và vẫn sử dụng Âm lịch trong suốt một khoảng thời gian rất lâu trong lịch sử. Chỉ có thể giải thích được điều lạ lùng đó, khi cho rằng lịch trăng từ lâu đã trở nên rất quan trọng đối với dân cư cổ xưa trong lao động, sản xuất, nhất là trong quá trình gieo, trồng, chăm sóc, gặt hái ngũ cốc cũng như các loại cây trồng nói chung. Kinh nghiệm phán đoán, nhận biết những biểu hiện khác thường của điều kiện, khí hậu môi trường, được đúc kết từ đời này qua đời khác của họ, có một phần không nhỏ là dựa vào sự quan sát trăng, sao.
Để có được Dương lịch Julian, loài người đã phải trải qua một chặng dài đăng đẳng trên con đường nhận thức tự nhiên. Điều kiện cần có để xây dựng lịch Julian là phải xác định được đơn vị đo thời gian, lượng đơn vị thời gian đo của 1 ngày, phải phát hiện được thời lượng (tính theo đơn vị thời gian là ngày) của một chu kỳ biến đổi thời tiết của Trái đất biểu hiện ra thành 4 mùa kế tiếp nhau đến bất tận, và trước hết phải phát minh ra được một công cụ đo thời gian đạt đến độ chính xác khả dĩ chấp nhận được. Có được những điều kiện đó vào thời nhận thức (so với ngày nay) còn chìm sâu trong mù quáng là vô cùng khó khăn và thậm chí là không thể. Tuy nhiên, nếu bây giờ ai đó bảo chúng ta xây dựng nên bộ Dương lịch kiểu Julian thì đó là một việc thật dễ dàng. Một cách “lý thuyết”, chúng ta cũng nhanh chóng xác định được như sau:
Biết một chu kỳ biến đổi thời tiết Trái đất có thời lượng là 365,25 ngày (với 1 ngày gồm 24 tiếng đã được xác định trước). Gọi thời lượng đó là “năm”. Sự trải nghiệm đã dẫn con người đến việc phân 1 năm thời tiết ra thành 4 trạng thái gọi là 4 mùa (Xuân, Hạ, Thu, Đông). Vậy thời lượng của 1 mùa là:
                           365,25 ngày : 4 mùa = 91,3125 ngày/mùa
Khi đã qui định đơn vị nhỏ nhất thì không thể hình dung được thời lượng của mùa (và cả của năm) lại là số thập phân (người xưa càng không thể hình dung được!). Trong thực tiễn đời sống, phần thập phân của thời lượng là không thể đếm được. vậy phải chọn thời lượng của 1 mùa là 91 ngày.
Đến đây, một năm đã có 2 đơn vị thời gian để đếm là ngày và mùa. Tuy nhiên đơn vị mùa thì lớn quá, đơn vị ngày thì nhỏ quá trong việc theo dõi sự biến chuyển của thời tiết và xác định mùa màng trong lao động nông nghiệp. Cần tìm một (hay vài) đơn vị thời gian mới với điều kiện nhỏ hơn mùa nhưng lớn hơn ngày và phải là số nguyên lần của ngày đồng thời mùa phải là nguyên lần của nó. Tìm tòi theo hướng ấy sẽ đi đến điều “hi hữu”: số 91 chỉ chia hết cho con số 7 trong các số từ 1 đến 10 - là con số mang “đức tính” đơn vị như con số 1, nghĩa là không thể chia hết nó cho bất cứ số nào ngoài số 1 và chính nó (số nguyên số). Người xưa thấy ở con số 7 tính huyền bí, thiêng liêng có lẽ một phần là vì thế chăng? Và thế là thời lượng 7 ngày được chọn làm đơn vị mới, gọi là “tuần”.
Khi chia 91 cho 7, được kết quả 13. Số 13 cũng là số nguyên tố và cũng có thể đã được người xưa chọn làm một loại đơn vị thời gian cho năm nữa.
Như vậy, chúng ta đã có một lịch trình Dương Lịch: 7 ngày là 1 tuần, 13 tuần là 1 mùa, 4 mùa là 1 năm. Lịch trình này có 1 năm ngắn hơn 1 năm thực là:
                           0,3125 x 4 = 1,25 ngày
Để có thể đưa lịch trình đó vào sử dụng “ngon cơm” hơn, chúng ta “cho phép” tuần đầu của mỗi năm có thêm 1 ngày, nghĩa là gồm 8 ngày và cứ 4 năm thì tuần cuối cùng của năm thứ tư cũng được thêm 1 ngày, nghĩa là nó cũng gồm 8 ngày.
Đó là một lịch pháp khá giản dị và tiện lợi trong việc theo dõi thời tiết và biên niên. Thế nhưng nếu đem nó ra sử dụng vào thời đại mà hầu hết dân cư sống bằng sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi gia súc, đánh bắt hải sản…, thì không những chẳng có “ma” nào hưởng ứng mà trái lại sẽ phải nghe toàn những lời ta thán đến “nản lòng”. Vì rằng dân cư thuở ấy không chỉ đã quen dùng lịch trình theo chu kỳ vận động của Trăng mà còn (và đây mới là điều quan trọng hơn) thấy ở đó những lợi ích to lớn và sát sườn. Dù có thể là đại khái thì dựa vào lịch trình trăng và quan sát trực quan những biến động của môi trường thiên nhiên, họ cũng ước lượng được quá trình chu chuyển của thời tiết. Chẳng hạn người Ai Cập cổ đại, lúc đầu đã lấy sự lên xuống của nước sông Nin (chu kỳ bồi đắp phù sa) để định lượng thời gian trong sản xuất nông nghiệp. Thời lượng đó lặp đi lặp lại tương đối ổn định đã dần làm nảy sinh ra khái niệm mà ngày nay chúng ta gọi là “năm”. Năm mới của người Ai Cập cổ thời ấy bắt đầu từ ngày nước sông Nin dâng (vào khoảng tháng 7 dương lịch) và một năm của họ được chia làm 3 mùa là mùa Nước Dâng, mùa Ngũ Cốc và mùa Thu Hoạch. Rõ ràng điều bức thiết đối với cư dân tiền sử là mưu sinh sao cho ngày một hiệu quả chứ không phải biên niên. Rất có thể nhu cầu biên niên sử, mãi về sau, khi trình độ toán học - thiên văn cho phép và vào lúc hình thành sự chuyên chế, độc tài trong xã hội.
Đối với cư dân nông, ngư nghiệp cổ đại, nhất là ở những vùng duyên hải Đông và Nam Á, khi đã quen lao động và sinh hoạt dựa vào kinh nghiệm quan sát được từ trạng thái của Trăng, sao. Khi đã có một lịch trình theo chu kỳ vận động của mặt Trăng, thì đòi hỏi tiếp theo không phải là một hệ Dương lịch mà chính là dựa vào những số liệu đo đạc thời gian (tạm gọi là) của Dương lịch để hoàn thiện lịch trình có sẵn sao cho nó vừa đảm bảo được những thông tin, dự báo liên quan đến khí hậu, mùa màng vừa phù hợp với chu kỳ chuyển vận thời tiết Trái đất, đồng thời đáp ứng được cả cho công việc biên niên sử. Nguyên nhân ra đời các hệ lịch pháp Âm Lịch của các dân tộc có thể là như vậy.
Sự sản xuất có tính hàng hóa thúc đẩy các ngành nghề thủ công phát triển. Tiểu thủ công nghiệp ngày càng chuyên sâu và mở rộng đã làm hình thành trong xã hội một hình thức kiếm sống mới, tương đối không còn phụ thuộc trực tiếp vào khí hậu, thời tiết nữa, đó là công - thương nghiệp. Hoạt động công - thương nghiệp phát triển ngày một mạnh mẽ theo xu thế tất yếu của đời sống xã hội dần dần trở nên nổi trội, biểu hiện (có vẻ) lấn át hoạt động nông nghiệp và có tính chất đa quốc qua. Hoạt động công - thương nghiệp cùng với một số hoạt động lao động phi sản xuất khác hợp thành một lực lượng người to lớn thoát ly khỏi sản xuất nông nghiệp, (kể cả ngư nghiệp, chăn nuôi…), tạm gọi là mưu sinh phi nông nghiệp, hoạt động trên khắp các khu vực lãnh thổ và có mối quan hệ (với nhau) ngày một rộng khắp. Trạng thái xã hội đó đã là nguyên nhân chủ yếu làm nảy sinh đòi hỏi phải có một lịch pháp chung tiện dụng, chính xác, thỏa mãn yêu cầu của biên niên. Có thể thấy rằng Dương lịch xuất hiện, được áp dụng ngày một rộng rãi là một tất yếu lịch sử.
Tuy nhiên, dù có vẻ bị lấn át, có vẻ lặn đi trên thương - chính trường, nhưng sản xuất nông nghiệp vẫn luôn là nền tảng của mưu sinh xã hội (đến ngày nay vẫn vậy!). Giả sử rằng nếu đột nhiên không còn sản xuất nông nghiệp nữa thì ngay lập tức, không những công - thương nghiệp sẽ trở nên hoảng loạn và mau chóng sụp đổ tan tành, mà ngay bản thân xã hội loài người cũng “tắt tiếng”, chấm dứt tồn tại. Do đó, một trong những đòi hỏi là nếu Dương Lịch muốn xuất hiện và được ứng dụng rộng rãi thì nó phải “bắt chước”, “thỏa hiệp” với Âm Lịch và nhất là ở những vùng sản xuất nông nghiệp truyền thống, nó và Âm Lịch sẽ “thỏa thuận với nhau” cùng tồn tại.
Ấn tượng mạnh mẽ nhất tác động đến tâm thức người thượng cổ là những đêm trăng tròn vành vạnh và sáng vằng vặc. Nhờ thế mà sự vận động theo một chu kỳ xác định đã được họ biết từ lâu, và trong Âm Lịch, tất yếu phải tồn tại một thời lượng đóng vai trò là đơn vị thời gian cơ bản gọi là “tháng Trăng”. Một tháng của lịch trăng (Âm lịch) được xác định bình quân là 29,53 ngày.
Chính khái niệm “tháng” trong Âm Lịch đã “gợi ý” cho Dương lịch, cũng phải có đơn vị thời gian “tháng” và để “thỏa hiệp” được với Âm lịch thì thời lượng của tháng Dương lịch phải tương đối “hòa đồng” với tháng Âm lịch.
Điều may mắn lạ lùng và có tính định mệnh là thế này, nếu lấy thời lượng bình quân của một tháng trăng chia cho 4, sẽ có:
                           29,53 : 4 = 7,3825    ;
Trong khi thời lượng bình quân thực của một tuần dương lịch là:
                           (365,25 : 4) : 13 = 7,024   ;
Nếu không chú ý đến phần thập phân (sau dấu phẩy), chúng ta sẽ có 2 kết quả đều là 7 - đúng bằng số ngày của một tuần Dương lịch qui ước!
Chắc rằng các nhà thiên văn thời tiền - sơ sử, cũng như các nhà làm lịch cổ đại, dù chưa nhận thức được đích xác bản chất vận động của các vì tinh tú, của Mặt Trăng, Mặt Trời, của sự chuyển biến ngày đêm, các sự xoay vần thời tiết… nhưng đã cảm nhận được mối liên quan hết sức mật thiết giữa chúng, giữa thời lượng cũng như quĩ đạo chu chuyển của các vì tinh tú trên bầu trời đêm và của Mặt Trời, của chu kỳ thời tiết; giữa chu kỳ tròn - khuyết của ánh Trăng và thời lượng 7 ngày của một tuần. Đối với họ, hình như Vũ Trụ đã được một lực lượng siêu nhiên nào đó sắp xếp, điều hành để vận động một cách trật tự, đồng bộ theo một lịch trình chu chuyển vĩ đại. Phải chăng vì thế mà họ đã thấy ở con số 7 (số lượng 7 đơn vị) sự biểu hiện của điều huyền bí thiêng liêng ấy? Và đơn vị tuần, qua bao nhiêu lần “vật đổi sao dời” vẫn tồn tại trong Dương Lịch cho đến tận ngày nay như để kỷ niệm buổi ban sơ của lịch sử hình thành Dương Lịch?
Sau khi vừa phỏng đoán (một cách vô ý vô tứ?), vừa tự diễn giải (theo hướng ưu tiên cho định kiến của mình!) để rồi từ đó mà tự giác ngộ (sao cho mình được lợi nhất!), chúng ta thấy rằng bộ Dương Lịch mới tạo dựng được ở trên là còn “thô quá!”, cho nên cần phải điều chỉnh và hoàn thiện hơn nữa.
Chúng ta sẽ tiếp tục chọn thêm một đơn vị thời gian nữa có thời lượng giữa đơn vị mùa và tuần. Bắt chước Âm Lịch, chúng ta gọi đơn vị thời gian mới, cũng để “đo” năm, là “tháng”. Thời lượng của tháng phải được chọn là nguyên và như đã nói, phải tương đương với tháng Âm Lịch để “thân thiện” với nó. Đã biết thời lượng của 1 mùa là 91 ngày và chỉ chia hết cho 7 (và 13), do đó có thể chọn tháng dương lịch có thời lượng:
                           13 x 2 = 26 ngày
                       7 x 4 = 28 ngày
So với thời lượng trung bình của tháng Trăng (29,5 ngày) thì thời lượng 28 ngày là phù hợp hơn và có thể chọn nó (chỉ chênh lệch có 1,5 ngày)
Với 1 tháng Dương Lịch được chọn là 28 ngày thì 1 mùa sẽ có:
                           91 : 28 = 3,25 tháng
Tuy nhiên đó chưa phải là cách chọn tối ưu. Nếu chọn 1 tháng Dương Lịch gồm 30 ngày thì so với tháng Trăng, (bình quân), chỉ còn chênh lệch 1 ngày, và 1 mùa bình quân lúc này là:
                           91 : 30 = 3,033… tháng Dương lịch.
nghĩa là thời lượng của mùa “lý thuyết” và mùa “thực tế” trong cách chọn này “gần nhau” hơn cách chọn trên.
Vậy, chúng ta tạm chọn 30 ngày làm thời lượng của tháng Dương Lịch; và thấy rằng với cách chọn đó thì 1 năm Dương lịch “chỉ còn” 360 ngày, hụt mất 5,25 ngày so với 1 năm thực tế. Để khỏa lấp sự sai biệt đó và đảm bảo sự phân bố thời lượng của các tháng trong năm cho tương đối “suông sẻ”, hài hòa, chúng ta sẽ tự nhiên đi đến một lựa chọn chung cục là chọn 2 loại tháng Dương lịch có thời lượng chênh nhau 1 ngày, nghĩa là có tháng 30 ngày và tháng 31 ngày, cho các tháng đó xen kẽ nhau, mà tháng đầu tiên của năm là tháng 31 ngày.
Sắp 12 tháng như vậy thật là đẹp nhưng té ra 1 năm lại gồm 366 ngày, dài hơn năm thực 0,75 ngày. Vậy phải giảm bớt 1 ngày của tháng nào đó (chúng ta chọn tháng 2) làm cho 1 năm còn 365 ngày, thiếu mất 0,25 ngày. Đến đây chúng ta quyết rằng năm thường có 365 ngày, trong năm đó, tháng 2 chỉ có 29 ngày; sau 2 năm thường sẽ đến 1 năm “nhuận”, năm nhuận có 366 ngày và tháng 2 của năm đó có “đủ” 30 ngày.
Thế thì tại sao tháng 2 trong năm thường của lịch Julian chỉ có 28 ngày? Có thể là do những “khúc mắc” nào đó trong lịch sử, những “kiêng kỵ” nào đó của thời xa xưa mà trong lịch Julian có đến 7 tháng với thời lượng 31 ngày (lại con số 7!!!).
Ngày nay, chúng ta thấy sự tồn tại của đơn vị thời gian tuần (gồm 7 ngày) thật lạ lùng. Nó không cần “biết” đến tháng đến năm. Không ai có thể xác định được một tháng gồm mấy tuần, cũng không ai xác định được bao nhiêu tuần thì đủ 1 năm. Thế nhưng nó cứ mặc nhiên tồn tại như một sự cần thiết cho mọi tầng lớp dân cư, nhất là cho lực lượng mưu sinh trong lĩnh vực công - thương và hành chính - sự nghiệp.
Đúng là con người sẽ sáng tạo ra đơn vị thời gian “tuần”. Thế nhưng cơ sở để xây dựng được đơn vị thời gian có vẻ chủ quan đó lại là “ngày” - một đơn vị thời gian nhỏ hơn, có tính hiển nhiên và có thể nói là hoàn toàn khách quan. Việc định ra thời lượng bảy ngày cho một đơn vị thời gian “tuần” không phải là một sự tùy tiện lựa chọn mà là do có sự mách bảo thầm kín của Thiên Nhiên. Hình như nó đã phải tất yếu xuất hiện trong buổi bình minh của quá trình hình thành Dương Lịch để rồi sau khi đã “hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng” và không còn tác dụng gì đối với lịch pháp nữa, nó vẫn không chịu rời bỏ “vũ đài xã hội” mà tiếp tục tồn tại như một “thực thể độc lập”. Dù hầu như không ai dùng đơn vị tuần để “đo” tháng, “đo” năm nhưng trong đời sống lao động và sinh hoạt thường nhật, con người lại gắn bó với nó có vẻ mật thiết hơn tháng, hơn năm. Ngày nay, trong chúng ta đây, mấy ai mà không mong ngóng đến Chủ Nhật cũng như những ngày nghỉ cuối tuần? Tục ngữ “mắt thứ hai, tai thứ bảy” là một báo hiệu rằng “tuần” đã xâm nhập vào tâm trí con người và đóng vai trò như một nhịp điệu sinh học.
Có nhiều thuyết lí giải về sự xuất hiện của “tuần” trong lịch pháp. Một số người cho rằng “tuần lễ bảy ngày” có nguồn gốc từ Ai Cập cổ đại và họ đặt tên cho các ngày trong tuần theo tên các vị thần của họ. Tuy nhiên, nhiều người hơn lại cho rằng “tuần lễ bảy ngày” là do người Babylon đặt ra. Các nhà thiên văn học Babylon, trong quá trình quan sát bầu trời đã phát hiện có 5 thiên thể (hành tinh) thấy được bằng mắt thường “phiêu du” quanh Trái đất (có vẻ như) trên cùng một lộ trình (quanh đường Hoàng Đạo) theo chiều từ Đông sang Tây tương tự như Mặt Trời, Mặt Trăng. Sau khi đã định ước ra đơn vị thời gian “tuần lễ bảy ngày”, họ dùng luôn tên của năm hành tinh đó (“hành tinh” có gốc từ ngôn ngữ Hi Lạp cổ, có nghĩa là “kẻ lang thang”), cùng với Mặt Trời và Mặt Trăng đặt cho bảy ngày đó theo thứ tự (có thể là theo quan niệm thời đó về độ xa gần, độ sáng, tầm quan trọng…) là (viết theo tiếng Việt): ngày Mặt Trời, ngày Mặt Trăng, ngày Sao Hỏa, ngày Sao Thủy, ngày Sao Mộc, ngày Sao Kim và ngày Sao Thổ.
Sau này, người La Mã, Giecmanh, Hi Lạp… cũng áp dụng cách tính thời gian theo “tuần lễ bảy ngày”. Người La Mã, trừ ngày Mặt Trời được đổi tên khác, còn những ngày còn lại vẫn gọi theo tên cũ. Cách gọi tên này được người Pháp dùng theo người Giecmanh giữ nguyên tên gọi ngày Mặt Trời, ngày Mặt Trăng, ngày Sao Thổ. Các ngày còn lại được họ thay bằng tên các vị thần của mình: Twia (hay Tiu), Woden, Thór, Feya (hay Frea). Kế thừa cách gọi này mà trong tiếng Anh ngày nay, bảy ngày của tuần lễ được viết lần lượt như sau: Sunday, Monday, Tuesday, Wednesday, Thursday, Friday, Saturday.
Ngày Mặt Trời được người Pháp gọi là Dimanche. Từ này có nguồn gốc từ chữ La tinh là Diesdominicus có nghĩa là “ngày của Chúa” hay “Chúa nhật”. Có thể cách gọi này xuất phát từ đạo Thiên Chúa (đạo Ki-tô), một đạo có xuất xứ từ khu vực phía Đông của Đế quốc La Mã mà “Thánh Kinh” của nó được cấu thành trên cơ sở “Kinh Cựu Ước” - bộ kinh của đạo Do Thái.
Người Do Thái không dùng tên các hành tinh mà dùng tên các con số để gọi các ngày của tuần lễ. Có lẽ, đạo Ki-tô đã tiếp thu cách gọi các ngày của tuần lễ rồi dựng nên huyền thoại Chúa sinh ra thế giới muôn loài trong sáu ngày, ngày thứ bảy thì xong việc, Chúa nghỉ ngơi. Ngày Chúa nghỉ trở thành ngày thiêng liêng, được chọn là ngày đầu tuần và gọi là “Chúa nhật”.
Năm 321, Hoàng đế La Mã lúc bấy giờ là Cônxtăngtin (Constancetine) chính thức công nhận cách gọi tên ngày theo người Babylon trừ ngày Mặt Trời, được đổi thành ngày của Chúa.
Ngày nay, ngày Mặt Trời còn mang những tên gọi có nghĩa khác nhau như trong tiếng Nga là “sự phục sinh”, trong tiếng Ba Lan là “ngày không làm việc”, trong tiếng Việt là “Chủ nhật”… Có người nói rằng trong tiếng Bồ Đào Nha, các ngày trong tuần lễ được gọi theo số đếm: Thứ Nhất, Thứ Nhì, Thứ Ba… Thứ Bảy. Cách gọi ấy theo các nhà truyền đạo Bồ Đào Nha phổ biến vào nước ta từ đầu thế kỷ XVII, chỉ thay ngày Thứ Nhất thành Chúa Nhật. Sau, từ Chúa Nhật bị biến âm đi, đọc trại ra thành Chủ Nhật.
Có lẽ không đơn giản thế! Chủ Nhật, theo nghĩa là ngày chủ của ngày thường, ngày quan trọng, ngày đứng đầu của một nhóm ngày nào đấy chắc rằng đã có trước tiếng Chúa Nhật từ rất lâu trong ngôn ngữ của người Việt. Thậm chí nguồn gốc của nó có thể là đã xuất phát từ khái niệm cổ xưa hàm nghĩa như ngày làm chuẩn mốc, ngày phân chia thời lượng, ngày thiêng liêng của Trời - Đất, thần linh ban cho, hay nghĩa chung nói theo ngày nay là: Ngày Lễ.
Nếu thực sự có khái niệm Ngày Lễ thì khái niệm này muộn nhất cũng đã xuất hiện vào thời Hùng Vương, khi mà lịch pháp kiểu Âm - Dương lịch như mô tả ở hình 11 đã được xác lập. Trong lịch pháp ngày, có thể người xưa đã phân biệt rạch ròi giữa ngày của Tuần (ngày thường) và ngày của Lễ (sau này mới có cách nói gộp thành “Tuần lễ” để biểu thị một thời đoạn nào đó trong năm (tất nhiên) có cả tuần, cả lễ; chẳng hạn: đã trôi qua 2 tuần lễ, 3 tuần lễ nữa là đến kỳ gặt lúa… Cũng theo lịch này thì một năm có 48 tuần, nghĩa là có 336 ngày thường, và có 30 ngày lễ. Trong 30 ngày lễ đó, có: 12 ngày lễ vọng (lễ Trăng), 12 ngày lễ sóc (lễ tháng), 4 ngày lễ quỉ (lễ mùa), 1 ngày lễ nhuận (4 năm có 1 lần) và 1 ngày lễ năm - còn gọi ngày Chủ Lễ, Ngày Chủ Niên và Ngày Chủ Nhật?).
Chúng ta biết rằng mọi truyền thuyết đều chứa đựng trong lòng chúng không ít thì nhiều những sự thực của quá khứ và ngay bản thân chúng cũng chính là những di tích có thực của quá khứ; nhưng lại đồng thời không phải là những câu chuyện kể về sự thật của quá khứ. Chủ nghĩa thực chứng cho rằng để xác minh một chân lý thì phải có bằng chứng. Nhưng muốn chứng minh sự đúng đắn của một lịch sử thì lấy bằng chứng ở đâu nếu không phải là từ chính lịch sử ấy? Bằng chứng lịch sử là gồm những dấu tích (thời xa xưa thường là câm nín huyền bí) còn lưu lại, những quan sát, tổng kết và đánh giá của các nhà nghiên cứu, các sử gia đi trước theo cách nhìn chủ quan (vô tình hay cố ý) của mình trên cơ sở một quan niệm nào đó trong đa dạng, đa chiều quan niệm cũng nặng tính chủ quan nốt. Vậy thì những bằng chứng lịch sử ấy đã đáng để tin cậy hoàn toàn chưa? Câu trả lời chỉ có thể là phủ định. Cho nên, để chứng minh cho những sự kiện đã từng thực sự tồn tại, thực sự xảy ra trong quá khứ, nghĩa là chứng thực cho một lịch sử thì việc chỉ trưng ra đủ những bằng chứng lịch sử không thôi là không đủ, mà còn cần phải biết hoài nghi để soi xét lại, nhận thức lại và đánh giá lại theo quan niệm được đa số thừa nhận của thời đại mới. Quan niệm đó càng sát với thực tại thì càng có cơ may thấy được, hiểu được một cách đúng đắn nhất về một lịch sử. Nhưng làm sao biết được quan niệm đó đã phù hợp với thực tại? Chào thua!!! Chúng ta chỉ có thể biết chắc chắn điều này: trong một chừng mực nhất định, thực chứng là vô cùng quan trọng trên con đường nhận thức chân lý, nhưng một cách phổ biến và tuyệt đối thì thực chứng đơn thuần không đủ khả năng xác nhận chân lý. Chỉ có thể nhận thức được chân lý đích thực thông qua suy lý và trên cơ sở thực chứng được xây dựng nên từ suy lý. Bởi vì Tự Nhiên Tồn Tại là duy nhất mà cũng có tính nước đôi, khách quan mà cũng là chủ quan, thực tại mà cũng là phi thực, vừa là này vừa là kia, là cả hai mà cũng không phải cả hai!
Trên tinh thần quan niệm đó, từ trước đến giờ, chúng ta đã cố gắng kể những câu chuyện lịch sử một cách khách quan nhất có thể và đồng thời khi cần phải soi xét, nhận thức lại thì cũng cố gắng thể hiện sự chủ quan nhất có thể.
Chúng ta “ngụy biện” như thế chỉ nhằm mục đích nói lên điều tâm huyết này: có những tình tiết lịch sử làm chúng ta tin, nhưng cũng có những tình tiết lịch sử không đáng tin và dù có thế nào chăng nữa, chúng ta cũng đặt cược vào niềm tín ngưỡng rằng vào thời ra đời trống đồng Ngọc Lũ thì Văn Lang đã có một lịch pháp Âm - Dương một cách “vững chãi” từ lâu rồi. Lịch pháp đó là một sáng tạo trên cơ sở kết tụ được những kiến thức thiên văn - địa lý của những nền văn hóa, những thời văn minh kế tục nhau trước đó, và trong những kiến thức ấy có thể có nhiều hiểu biết quan trọng kế thừa được từ thuở Địa Đàng. Sự tương tự về văn hóa ở các nền văn minh cổ đại có hai nguyên nhân trực tiếp là sự lan truyền văn hóa giữa chúng (tuân theo nguyên tắc ưu tiên từ trình độ cao xuống trình độ thấp) và sự cùng thừa hưởng tinh hoa từ một nền văn minh sớm hơn, duy nhất.
Còn một vài áy náy cần phải giãi bày về lịch pháp hình 11.
Khi nói đó là loại lịch pháp Âm - Dương kết hợp thì cần phải chỉ ra sự kết hợp đó thể hiện ra như thế nào? Nếu xem xét lại quá trình tạo dựng bộ lịch hình 11, do chúng ta thực hiện thì ngoài hai từ “vọng”, “sóc” được mượn vô duyên cớ ra, nó chẳng còn có mối quan hệ nào khác với Âm lịch nữa. Rõ ràng nó là bộ Dương lịch thuần túy. Tuy nhiên cách phân định tổng số ngày của một năm ra thành ngày thường và ngày lễ, ra tuần 7 ngày và tháng “chuẩn” (hay gọi đúng hơn là “cơ sở”) gồm 4 tuần đã làm cho nó trở nên rất “gần gũi” Âm lịch và dẫn tới gợi ý rằng nếu bớt số ngày lễ đi một cách hợp lý, có thể sử dụng nó như một bộ Âm lịch thực thụ. Chúng ta sẽ thử một phen xem sao!
Gọi năm tính toán chưa phân bố các ngày lễ (không tính các ngày lễ) là năm “cơ sở”. Vậy 1 năm cơ sở gồm 4 mùa, mỗi mùa gồm 3 tháng, mỗi tháng gồm 4 tuần và mỗi tuần gồm 7 ngày. Tính ra, tổng số ngày thường của 1 năm là 336 ngày. Thêm các ngày lễ và phân bố như đã làm, chúng ta có bộ Dương Lịch hình 11 với số ngày của 1 năm Dương Lịch thường là 365 ngày. Đã biết 1 năm Âm Lịch có 354 ngày (lấy nguyên), trên cơ sở đã có 336 ngày thường, nếu chúng ta chọn số lượng ngày lễ là 18 ngày thôi và phân bố lại một cách hài hòa thì bộ Dương Lịch hình 11 đương nhiên sẽ được sử dụng như Âm Lịch và vì có thể đối chiếu qua lại nhau giữa hai loại lịch đó nên cũng có thể gọi bộ lịch hình 11 là Âm - Dương Lịch.
Trước hết, từ bộ Dương lịch hình 11, chúng ta bỏ đi tất cả các ngày sóc, trừ những ngày Lập Xuân, Lập Hạ, Lập Thu, Lập Đông, và bỏ luôn cả 4 ngày của mùa. Vì một năm Dương Lịch thường có 365 ngày nên bây giờ, sau khi bị “can thiệp thô bạo” nó chỉ còn 353 ngày, thiếu 1 ngày nữa thì đủ thời lượng của 1 năm Âm Lịch. Theo sự phân bố từ trước thì đầu năm vẫn có 1 ngày “Chúc mừng năm mới” gọi là Ngày Tết. Do đó, phù hợp với quan niệm lưỡng phân - lưỡng hợp và để “tiện cả đôi bề”, chúng ta thêm 1 ngày vào giữa năm , tạm gọi là ngày Tết giữa năm. Ngày này, nếu sự “giác ngộ” của chúng ta là đúng đắn, thì chính là “tiền thân” của Tết Trung Nguyên (rằm tháng 7 Âm lịch).
Tên những ngày lễ đã bỏ đi đó được lấy lại để đặt cho những ngày thường nằm kế cận chúng. Chẳng hạn như ngày thường ở cuối tháng 3 lúc này được gọi là ngày sóc, ngày thường của đầu tháng 4 được gọi là ngày Lập Hạ. Như vậy, trong Âm Lịch mà chúng ta đang xác lập, các ngày lễ vẫn hiện diện đầy đủ.
Sau khi đã qui ước như trên, chúng ta đã làm cho bộ Dương Lịch hình 11 hóa thân thành bộ Âm Lịch với các tháng có thời lượng lần lượt như sau:
Tháng 1 có: 30 ngày                                Tháng 7 có: 30 ngày
Tháng 2 có: 29 ngày                                Tháng 8 có: 29 ngày
Tháng 3 có: 30 ngày                                Tháng 9 có: 30 ngày
Tháng 4 có: 29 ngày                                Tháng 10 có: 29 ngày
Tháng 5 có: 29 ngày                                Tháng 11 có: 29 ngày
Tháng 6 có: 30 ngày                                Tháng 12 có: 30 ngày
Điều chỉnh chút xíu nữa: lấy 1 ngày của tháng 6 cho tháng 5 và lấy 1 ngày của tháng 12 cho tháng 11, chúng ta sẽ có các tháng 30 ngày và 29 ngày được xen kẽ đều đặn.
Bộ lịch hình 11 giờ đây đã có thể được sử dụng vừa là Dương Lịch thuần túy vừa là Âm Lịch thuần túy hoặc có thể gọi đó là một bộ Âm - Dương Lịch. Chúng ta có thể nêu ví dụ về cách sử dụng bộ Âm - Dương lịch này. Chẳng hạn, nếu có ngày 16 tháng 1 theo Dương Lịch, thì ngày đó sẽ là ngày 13 tháng Giêng Âm Lịch (trừ đi 3 ngày). Ngày 4 tháng 3 Âm Lịch chính là ngày 1 tháng 3 Dương Lịch. Ngày 12 tháng 6 Dương Lịch nếu tính theo Âm Lịch, là ngày 7 tháng 6.
Xem xét ở góc độ khác, trong năm đầu tiên áp dụng bộ Âm - Dương lịch này, rõ ràng mồng một tháng Giêng Âm Lịch (viết tắt: 1-1 Â) trùng với mồng một tháng một Dương Lịch (viết tắt: 1-1 D). Và chúng ta có so sánh sau (đếm theo cách hiện đại, gồm cả lễ, tết):
30-1 Â             trùng với           30-1 D
29-2 Â             trùng với           27-2 D
30-3 Â             trùng với           27-3 D
29-4 Â             trùng với           26-4 D
30-5 Â             trùng với           25-5 D
29-6 Â             trùng với           24-6 D
30-7 Â             trùng với           24-7 D
29-8 Â             trùng với           22-8 D
30-9 Â             trùng với           22-9 D
29-10 Â           trùng với           21-10 D
30-11 Â           trùng với           20-11 D
29-12 Â           trùng với           19-12 D
Qua đó Mồng Một Tết năm thứ hai sẽ trùng với ngày 20-12 D của năm thứ nhất (Tết Dương lịch (1-1 D) trùng với ngày 12-1 Â). Ngày 20-12 D là ngày thuộc thời khoảng Đông Chí (gần với ngày Đông Chí 22-12 D) hoặc cũng có thể theo cách xác định thời xưa, đúng là thời điểm Đông Chí (nhất là theo lịch Julian, vì tháng 12 có 31 ngày nên 1-1 Â sẽ trùng với ngày 21-12 D).
Tính chính xác thì sau 3 năm Âm Lịch, Dương Lịch vẫn phải trôi thêm:
(365,2422 – 354,367) x 3 = 10,875 x 3 = 32,626 ngày nữa mới hết năm thứ ba của nó. Điều này dẫn đến việc cần phải thêm vào mỗi năm thứ ba Âm Lịch 1 tháng có 30 ngày (tháng nhuận đủ) và vào mỗi 100 năm thêm 3 tháng có 30 ngày (tháng nhuận đủ), tổng cộng là 36 tháng nhuận đủ cho 100 năm.
Có khả năng chính quá trình điều chỉnh, bổ sung cho Âm Lịch và Dương Lịch tương đồng, hòa hợp với nhau đã làm xuất hiện thêm một số những ngày Lễ, Tết sau này như Thanh Minh, Đoan Ngọ…
Sau khi đã phân định thời tiết của một năm ra làm 4 trạng thái (4 mùa), rồi 8 trạng thái (tiết), gọi chúng là Tứ thời - Bát tiết, cư dân Việt cổ vẫn thấy chưa đủ phản ánh những khoảng biến đổi thời tiết có tính chu kỳ ngắn hơn nữa, đồng thời nhận thấy rằng trong 1 quí có 6 ngày vọng, sóc (3 cặp vọng - sóc) chia đều thành khoảng bằng nhau, hay đối với 1 tiết là 3 khoảng bằng nhau, do đó họ đã lấy tổng số ngày của 3 tháng là 90 ngày đem chia cho 6, có kết quả là 15 ngày và gọi khoảng thời gian này là “khí”, nghĩa là một tiết gồm 3 khí. Không dừng lại ở đó, người Việt cổ chia tiếp 15 ngày cho 3, được kết quả là 5 ngày và gọi khoảng thời gian gồm 5 ngày là 1 “Hậu”, nghĩa là 3 hậu hợp thành 1 khí.
Như vậy, thời tiết - khí hậu của một năm gồm: 4 mùa, hoặc 8 tiết, hoặc 24 khí, hoặc 72 hậu. Nói cách khác: 5 ngày thành 1 hậu, 3 hậu thành 1 khí, 3 khí thành 1 tiết, 2 tiết thành 1 mùa, 4 mùa thành 1 năm. Cộng các số 5, 3, 3, 2, 4, chúng ta có số 17. “Thừa thắng xông lên”, chúng ta “nổ” tiếp: 4 năm thành 1 hành, 5 hành thành 1 “thể”, 5 thể là 1 “thế” (kỷ). Cộng các số 4, 5, 5 lại, chúng ta có được số 14 - là số cánh ngôi sao trên mặt trống đồng Ngọc Lũ. Rồi, 10 thế là 1 thiên (kỷ),… Thôi không tiếp nữa đâu, “nổ” quá ai mà tin nổi!
Nếu không có bất cứ chú giải nào, thì xin cam đoan rằng ngay cả NTT của chúng ta - vị đại biểu xuất sắc nhất của triết học duy tồn, cũng tưởng hình 11 là minh họa lại mặt trống đồng Đông Sơn nào đó và hoàn toàn không hiểu mô tê ất giáp gì về việc tại sao lại bài trí các họa tiết hoa văn theo cách như thế. (Thầy Cãi chắc rất khoái cảnh NTT “ngẩn tò te”!).
Vậy, mặt trống đồng Ngọc Lũ có phải là một “cuốn” lịch pháp của thời đại Hùng Vương không? Có lẽ là không. Chúng ta có cảm nhận rằng mặt trống đồng Ngọc Lũ như một đĩa ghi hình ngày nay, đã được “nén lại” một dung lượng đa tạp lớn lao. Tuy nhiên, ngoài những thông tin có tính “quốc hồn, quốc túy” của xã hội đương thời, nó còn là nơi lưu giữ những tinh hoa trí tuệ con người được kết tinh lại của mọi thời kể từ thời xa xăm thái cổ, cho nên mặt trống đồng Ngọc Lũ dù không đơn thuần mang chức năng lịch pháp, thì chắc rằng cũng hàm chứa những quan niệm cơ bản làm nên lịch pháp, những yếu tố trọng yếu của lịch pháp…
Rời hình tròn trung tâm, chúng ta “đi” theo hướng kính và “vấp” ngay phải một đường tròn do chuỗi hoa văn hình tròn chấm giữa nối nhau bằng đường lượn tiếp tuyến kết thành. Chúng ta đếm và biết rằng số hình tròn chấm giữa là 100. Số lượng 100 ấy có ý nghĩa gì?
Muốn chia đường tròn ra thành 100 phần bằng nhau không phải dễ. Trước hết phải chia được đường tròn ra thành 5 phần bằng nhau, sau đó phải biết cách chia một cung tròn ra thành 5 phần bằng nhau. Chia như thế nào nếu thời đó chỉ có thước kẻ và (cho rằng) có cả compa? Có lẽ người Việt cổ đã phải tìm một cách chia gần đúng nào đó mà ngày nay chúng ta vẫn chưa phát hiện được. Tuy nhiên phương pháp chia gần đúng đó đã được dùng phải nói là phổ biến, thường xuyên, đạt độ chính xác cao, vì trên mặt trống đồng Ngọc Lũ, hầu hết các đường tròn tạo bởi những họa tiết hoa văn nối nhau, có số lượng buộc phải đưa về cách chia đường tròn thành những phần lẻ bằng nhau, lớn hơn 3, và số phần phải chia trên một đường tròn là khá nhiều.
Việc buộc các nhà chế tác Việt cổ phải chia như vậy chứ không thể chọn tùy tiện cách dễ hơn (như chia thành 3, 4, 6, 8… phần bằng nhau chẳng hạn) đã cho thấy số lượng họa tiết hoa văn trên đường tròn (hay số phần bằng nhau của đường tròn) là có ý nghĩa quan trọng. Vậy vòng tròn hoa văn có số lượng 100 hình tròn chấm giữa hàm ý gì? Nó tượng trưng cho Tự Nhiên vô biên bao bọc, che chở đất trời Văn Lang? Hay đó là biểu trưng số năm của 1 thế kỷ?
Chúng ta nêu ra những câu hỏi để không trả lời được, đành tiếp tục hướng tới dải hình tròn mới và lại đặt ra những câu hỏi. Nếu không chú ý tới các đường tròn trơn (đóng vai trò như đường phân cách hơn là trang trí hoa văn và thực sự không có ý nghĩa quan trọng nào đó), thì “trước mắt” chúng ta là dải hoa văn làm thành đường tròn, gồm 72 họa tiết chữ nối đuôi nhau. Số 72 này có phải mang ý nghĩa là số hậu của 1 năm? Nếu nhân số hậu với 5, ta sẽ có số ngày “chính thức” của 1 năm Dương Lịch là 360 ngày, và nếu chia cho 2 ta sẽ có số 36, là bình phương của 6.
Phía ngoài, kế tiếp dải chữ lại là một dải tròn do các hình tròn chấm giữa nối nhau bằng đường lượn tiếp tuyến tạo thành. Số lượng hình tròn chấm giữa ở đây là 120. Số này có phải là tượng trưng cho số khắc của 1 ngày (chia 1 tiếng thành 5 khắc)?
Nếu lấy 120 cộng với 72 rồi chia cho 2, chúng ta sẽ có 96 - số khắc của một ngày (khi chia 1 tiếng thành 4 khắc). Nếu cộng ba số: 120, 72, 96 với nhau, sẽ có số 288. Đem chia số này cho 2 sẽ ra số 144, số 144 chính là bình phương của 12. Lấy số 360 trừ cho 288, sẽ lại xuất hiện số 72. Còn khi đem chia 3 số trên (120, 72, 96) lần lượt cho số tiếng của 1 ngày (24) sẽ làm xuất hiện 3 số: 3, 4, 5. Như đã biết thì đó chính là độ dài ba cạnh của tam giác vuông nguyên nhỏ nhất (mà cạnh huyền có độ dài là 5).
Sự xuất hiện, mối quan hệ, sự chuyển hóa qua lại của các con số nói trên thật đơn giản mà cũng dễ hiểu. Tuy nhiên vì chúng được thể hiện, ẩn chứa trên mặt trống đồng Ngọc Lũ nên lại hóa ra lạ lùng và hình như có một phần chủ đích chứ không phải hoàn toàn là ngẫu nhiên.
Dải họa tiết hoa văn tạo thành đường tròn thứ tư, bao ngoài ba dải kia cũng gồm các hình tròn chấm giữa và đường lượn tiếp tuyến tạo thành, nhưng số lượng hình tròn chấm giữa lên tới 180 đơn vị. Số này bằng 2 lần số đại diễn Trời - Đất (90), bằng nửa số ngày “chính thức” của năm. Nếu đem nó chia cho số thiêng liêng 15, sẽ có kết quả là số 12 - đây là số lần trăng tròn (rằm) và cũng là số lần trăng khuất trong 1 năm. Thấy rằng dải tròn có 180 đơn vị hình tròn chấm giữa nằm cạnh dải tròn có 120 đơn vị. Nếu đem chia 2 số lượng đó cho 4, sẽ cho ra hai số lần lượt là 45 và 30. Chúng ta đã bàn luận về 2 con số này rồi và bây giờ lại tiếp tục chia chúng cho số thiêng liêng 15, sẽ xuất hiện lần lượt 2 số là 3 và 2. Đó là số Trời và số Đất. Phải chăng số 180 xuất hiện để kết hợp với số 120 hàm chứa cái ý này? Chúng ta không biết, nhưng nếu có thế thì cũng hơi… tầm thường quá chăng? Bản chất của chân lý là giản dị, bản chất của nhận thức là hoài nghi. Vì vậy mà nhiều khi nhận thức đã phải “vòng vo tam quốc” đi tìm chân lý ở những nơi xa vời, cao siêu, trong khi chân lý đã hiển hiện ngay bên cạnh nhưng bị che mờ bởi lớp bụi mỏng tầm thường. Chúng ta nghĩ vậy và viết tiếp ra đây hai biểu hiện nữa, có thể cũng tầm thường thôi, nhưng lạ lùng:
                              
Hai kết quả đó là tổng số ngày của một năm Dương Lịch và năm Âm Lịch.
Còn một lô những dải đường tròn được tạo nên bởi họa tiết hoa văn hình học nữa. Nếu có công ngồi đếm hết chúng thì rất có thể chúng ta sẽ phát hiện ra nhiều điều hay ho nữa (nhớ rằng hay ho là một chuyện còn đúng hay không lại là chuyện khác!). Nhưng chúng ta tạm dừng cái công việc gò lưng, nhíu mắt đến mỏi đừ người đó, chuyển sang tìm kiếm trên 3 vành hoa văn người - thú - vật, đỡ mệt hơn, đỡ nhàm chán hơn và biết đâu lại còn thấy những điều hay ho hơn nữa.
Lần này, chúng ta cũng đi theo hướng kính nhưng không phải từ trung tâm ra mà từ rìa mặt trống đồng Ngọc Lũ về phía trung tâm. Tất cả có 3 vành hoa văn người - thú - vật. Vành đầu tiên tính từ ngoài vào là vành chim. Trên vành này chúng ta thấy có 18 con chim Lạc (không biết ngày nay còn tồn tại không và có tên mới là gì; có nhà nghiên cứu cho là loài cò; nhưng ý kiến cho là loài hồng hạc, sếu mũ đỏ nghe có lý hơn). Xen kẽ với 18 con chim Lạc giống nhau “y khuôn”, nối đuôi thiên di, bay mê mải đó là 18 con vật thuộc loài chim không bay mà đều đứng với vóc dáng, hình thể, tư thế không con nào giống con nào. Một điều dễ nhận biết bằng trực giác là chúng được phân bố mỗi con chim Lạc hợp với một con vật thuộc loài chim (mà qua vóc dáng có vẻ “nặng nề”, cho ta cái cảm giác chúng đã ít nhiều mất khả năng bay cao, bay xa, mà chỉ tương tự như gà, vịt… ngày nay) thành từng cặp. Các nhà thông thái Việt cổ định gửi gắm ý tình gì trong vòng tròn này?
Nam bộ - Việt Nam thời kỳ rộ lên những cuộc lan tỏa dân cư, “khai thiên lập địa” với mênh mông nước nổi, chằng chịt sông ngòi, bạt ngàn, rậm rạp rừng xanh, cây trái bốn mùa trù phú, với biết bao nhiêu là cá tôm, chim cò, muông thú làm chúng ta có cảm tưởng đó là hình ảnh gần với hiện thực đồng bằng Bắc Bộ thời Hùng Vương nhất, được gửi gắm về từ ngàn xưa. Đọc “Đất rừng Phương Nam” của Đoàn Giỏi, chúng ta vẫn còn thấy dội lên cái hơi thở hồn nhiên, khoáng đạt, dung dị, thuần phác mà dũng cảm, bất khuất của tổ tiên người Việt chúng ta - cộng đồng dân cư hun đúc nên nền văn minh sông Hồng cổ đại.
Xưa kia, người Việt cổ đã tôn thờ chim Lạc (Hồng hạc) làm thủy tổ của mình, núi thẳm rừng xanh là tổ quán của mình. Quá trình qui tụ dân cư về đồng bằng sông Hồng và dọc duyên hải Bắc Bộ, Bắc - Trung Bộ Việt Nam từ miền cao xuống, từ Nam - Trung Hoa sang có vẻ như một sự đoàn tụ trở lại từ sự phân ly đã từng xảy ra đâu đó rất sâu ở thời tối cổ. Lớp dân cư đầu tiên đặt chân đến địa bàn châu thổ sông Hồng cũng như dọc miền duyên hải Bắc - Trung Bộ chính là những con người từ thượng du Bắc Bộ, những con người sở hữu nền văn hóa Bắc Sơn - hậu duệ của nền văn minh Hòa Bình. Lớp cư dân ấy trở thành dân bản thổ và nhận cá sấu, loài vật dũng mãnh và oai phong nhất của vùng chằng chịt sông nước, hồ, đầm, làm vật tổ. Sau này chim Lạc thoát xác thành “Tiên”, cá sấu thoát xác thành “Rồng”, hình thành nên cái quan niệm hết sức độc đáo, huyền hoặc một cách thiêng liêng, của cộng đồng dân cư Việt cổ, tự coi mình có nguồn gốc xuất xứ từ Rồng - Tiên, là con Rồng cháu Tiên (tổ xa là Tiên mà tổ gần là Rồng!).
Số lượng 18 con chim Lạc làm chúng ta nhớ ngay đến 18 đời Hùng Vương. Việc sắp xếp chim Lạc và con vật giống chim thành cặp phải chăng nhằm muốn nói điều này: 18 triều đại vua Hùng giống nhau đại thể về cơ chế nhưng cũng có những nét khác nhau, có thể phân biệt được? Nhưng nếu thực sự mang ý nghĩa này thì trống đồng Ngọc Lũ phải xuất hiện sớm nhất cũng chỉ ở đời vua Hùng thứ 18 - giai đoạn suy tàn dần đến mức không còn gượng dậy nổi của một thời đại vinh quang. Một tuyệt tác ra đời trong một xã hội suy yếu và rối loạn binh đao, nghe thật khiên cưỡng và “khó chịu”. Chúng ta từ bỏ ước đoán vừa rồi vì có vẻ thái quá.
Nếu không phân biệt giống loài thì tổng số con vật có trong vành tròn đang xét là 36. Số 36 này có hàm ý nào không khi mà nhân nó với 2 ta lại có số 72 - số hậu của một năm. Có thể đó là một trùng hợp ngẫu nhiên (trong cái nền tảng sâu xa tất nhiên của quan niệm thế giới theo tượng số không phải không hợp lý trên cơ sở hoàn toàn hiển nhiên, tất yếu: 1 là lực lượng, 2 là lưỡng phân tương phản, 3 là lưỡng hợp thống nhất, 4 là phương chiều thực tại, 5 là gốc xác định phương chiều, 6 là phương chiều không gian…). Đến đây, chúng ta tắc tị, chẳng còn biết nói gì hơn nữa về vành tròn có đàn chim Lạc thiên di và những con vật giống chim đứng phần đông có vẻ hơi ủ rũ, buồn tênh, đành tạm bỏ lửng để tiếp tục “ngắm nghía” vành tròn thứ hai: vành có 2 đàn chim đối ứng nhau đang “hồ hởi” bay và 2 đàn hươu cũng đối ứng nhau, đang “khoan thai” bước đi.
Tổng số con vật ở vành thứ hai (cả hươu, cả chim) là 34. Nếu chia 34 cho 2 sẽ được 17. Số 34 và 17 có hàm ý gì không? Có lẽ không. Cố bịa ra thì cũng được vài ý nhưng chắc là tầm thường, trong khi không cần làm như thế thì vành này cũng đã ẩn sẵn nhiều điều lạ.
Điều lạ thứ nhất là nếu ta cộng số lượng 34 cho số cặp chim ở vành thứ nhất (18 cặp) thì ta sẽ làm xuất hiện số 52. Đó chính là số tuần của 1 năm. Nếu coi số 34 là hai số đơn đứng cạnh nhau thì tổng của nó là 7 - số ngày của 1 tuần (3 + 4).
Điều lạ thứ hai là không cộng số 34 với số 18 mà là với số 18 nhân đôi (tổng số con vật của vành thứ nhất nhân đôi) ta sẽ gặp lại số 70. Số này chính là tổng số khắc của 1 ngày khi qui ước 1 ngày gồm 14 tiếng và 1 tiếng gồm 5 khắc. Khi số 7 là số tiểu diễn thì số 70 chính là số đại diễn của Không - Thời gian.
Điều kỳ lạ thứ ba là thế này: tổng số lượng chim là 14, tổng số lượng hươu là 20. Tại sao lại có sự “bất bình đẳng” như vậy? Sao không là 17 chim và 17 hươu? Sao số hươu nhất quyết phải là 20, và tổng số chim phải là 14? Giả sử đó là những số đơn đặt cạnh nhau và vì số 0 là trống rỗng nên tổng 2 + 1 + 4 sẽ tạo ra con số 7 thiêng liêng.
Cũng trên vành chim - hươu, nếu coi con chim dang thẳng 2 cánh bay là biểu tượng chỉ con số 2, và con hươu bước đều bằng 4 chân (thấy rõ) là biểu tượng của con số 4 thì tổng số (trừu tượng) của vòng này là 108. Lấy số 108 này chia cho số 18 (số cặp của vòng thứ nhất) sẽ có kết quả là 6, nghĩa là 1 cặp gồm một con chim Lạc và một con giống chim tương đương với 6 đơn vị đếm. Vì con giống chim đứng im trên 1 chân (có thể) đã được qui ước là biểu tượng của số 1 nên con chim Lạc bắt cặp với nó phải mang biểu tượng con số 5, để cho tổng của chúng là 6 (điều này cũng rất có lý vì chim Lạc là thủy tổ, có bản chất Thái cực và thực thể Thái Cực nhỏ nhất chính là 5). Lấy số 5 đó nhân với số 18 (số cặp) sẽ cho ra số 90. Đây chính là số đại diễn của Trời - Đất. Có lạ không? Nếu lạ thì chúng ta có thêm điều lạ thứ năm, đó là 108 chính bằng 180 - 72. Số 108 chính bằng số huyệt đạo trên một cơ thể người, và có thể cho cả điều này là chuyện lạ thứ sáu: có đúng 108 anh hùng Lương Sơn Bạc ở bên Trung Quốc chứ không hơn, không kém(!)
Điều lạ tiếp theo là nếu ta nhân hai đàn hươu với nhau và 2 đàn chim với nhau, sẽ cho ra hai số đếm là 48 và 100. Lấy 100 trừ cho 48 sẽ có được số 52 quen thuộc. Lấy số 48 nhân 2 sẽ có số 96 - số khắc của một ngày được chia thành 24 tiếng với mỗi tiếng qui ước là 4 khắc. Nếu không làm như thế mà cặp một đàn chim với một đàn hươu thì chúng ta có được số lượng của mỗi cặp là 18 và 16. Đem chia hai số đó cho 2 rồi nhân với nhau (9 x 8), số 72 sẽ lại xuất hiện. Còn nếu nhân 2 lần số ấy, số 288 cũng sẽ xuất hiện.
Cuối cùng là điều lạ lùng nhất. Không hiểu duyên cớ gì mà người xưa phân số chim và số hươu ra, mỗi loài thành 2 đàn rồi bố trí xen kẽ nhau: chim - hươu - chim - hươu, nghĩa là mỗi loài gồm 2 đàn được bố trí tương phản đối ứng qua trung tâm của vành tròn. Tuy nhiên, trong khi đối với hươu, người ta phân chia tổng số 20 con thành 2 phần 10 - 10 đều nhau, thì đối với chim, tổng số là 14 con lại không được chia đều 7 - 7 mà thành 8 - 6 (bên này có 6 con chim thì bên kia có 8 con). Chia như vậy có ẩn ý gì? Nếu chỉ chú ý tới số lượng thôi thì chúng ta thấy được trình tự sắp xếp bắt đầu bằng số 8 là: 8 - 10 - 6 - 10. Thật ngạc nhiên khi đó chính là cột số thứ 2 (mà chúng ta đã nêu ra trước đây ở phần lạm bàn thêm về Hà - Lạc) được đặt nằm thành hàng. Nếu đem chia cột số thứ 2 cho 2 thì chúng ta sẽ “về” cột số thứ 1 và từ cột số thứ 1 sẽ dẫn đến cách sắp xếp Hà Đồ theo Khổng An Quốc (xem lại hình 10). Phải chăng Khổng An Quốc đã thấy được điều ông cần trên mặt trống đồng Ngọc Lũ trong quá trình nghiên cứu, thu thập thông tin để xây dựng lại hình tượng Hà Đồ đã mất dạng trước cả thời Khổng Tử hàng trăm năm?
Chúng ta đều biết 6, 8, 10 cũng là ba cạnh của một tam giác vuông nguyên (mà cạnh có độ dài 10 là cạnh huyền). Tam giác này có diện tích bằng 4 lần diện tích tam giác vuông nguyên có độ dài các cạnh: 3, 4, 5 và có mối liên hệ:
22 (32 +42) = 22.52 = 62 + 82 = 102
Và mối quan hệ về chu vi của 2 tam giác là:
2(3 + 4 + 5) = 2 x 12 = 6 + 8 + 10 = 24
(trùng với số giờ của một ngày và còn có thể viết: 10 + 14 = 24)
Không thể phủ nhận được rằng các nhà thông thái, nghệ nhân Việt cổ đến thời đúc trống đồng Ngọc Lũ đã khám phá được nhiều điều sâu sắc nhất về hình học cũng như số học. Có nhiều khả năng bản chất của định lý Pitago đã được phát hiện trước đó từ lâu rồi.
Vượt qua vành tròn thứ hai, chúng ta đến vành tròn thứ ba (cũng là vành cuối cùng).
Điều đầu tiên đập vào mắt chúng ta là quang cảnh những hoạt động văn hóa nào đó, có tính tiêu biểu, điển hình của xã hội dân cư thời Hùng Vương, giai đoạn ấp ủ và hình thành trống đồng Ngọc Lũ. Các hoạt cảnh được trình bày theo quan niệm tương phản đối ứng, tạo nên sự cân xứng về đại thể nhưng có nhiều khác biệt về mô tả chi tiết, đã làm cho bức tranh trở nên hết sức sinh động, hơn nữa, cùng với những nét khắc họa tạo dáng hình thể có chủ đích tôn vinh, cái không khí hồ hởi vui sống trong một xã hội đang kỳ sung túc cũng làm cho bức tranh bừng sáng. Ngắm nhìn quang cảnh xã hội đó, chúng ta có cảm giác như mọi thứ đang “cựa quậy” thực sự, đang hối hả thực hiện phận sự, hòa nên dòng đời trôi theo chiều định mệnh, có tính chu chuyển, luân hồi đến bất tận trong thời gian.
Về trống đồng Đông Sơn nói chung và vành thứ ba của trống đồng Ngọc Lũ nói riêng, các nhà nghiên cứu với cái nhìn chuyên môn sâu của họ, đã đưa ra rất nhiều những ước đoán, lý giải. Chúng ta không nhắc lại làm gì. Ở đây, chúng ta chỉ cố chú tâm nêu ra những cảm nhận của riêng mình có được nhờ bộ não đã sẵn chứng hoang tưởng lại thêm được thiền ngộ, về vành hoa văn người - vật, vành thứ ba của trống đồng Ngọc Lũ. Để tiện cho việc diễn giải, chúng ta cố nhìn trống đồng Ngọc Lũ sao cho chỉ thấy rõ vành thứ ba thôi, rồi điền thêm một số ký hiệu tại những vị trí được cho là cần thiết. Đó là hình 12.
Đặc điểm đầu tiên trong trang trí hoa văn người - vật ở vành thứ ba là nó được phân đôi bằng hai vạch ngăn chia tại C và D, tạo thành 2 phần (được thể hiện giống nhau về đại thể, sai khác về tiểu tiết) với những hoạt cảnh tương tự nhau, được đặt tương phản đối ứng qua tâm mặt trống. Ở mỗi phần, theo chúng ta thì đều gồm những phân cảnh sau đây. Nếu chúng ta bắt đầu từ vị trí C (vạch phân cách) và quan sát theo chiều vận động của toàn thể người - vật trên mặt trống (cũng chính là tượng trưng cho chiều xoay vần duy nhất của vạn vật hiện tượng - chiều thời gian) thì sẽ thấy phân cảnh đầu tiên là một đoàn người đang đi theo hàng một. Trang phục của những người đó thật cầu kỳ. Họ đang dự một cuộc lễ hội nào chăng? Cũng có thể đó là cách ăn mặc của tầng lớp sang trọng, quyền quí, nhưng có lẽ đúng hơn, nên cho rằng họ thuộc hàng ngũ quan lại nhà nước và đang đi thực hiện phận sự gì đó. Phải chăng trên tay họ là những dụng cụ dùng để đo đạc, vạch vẽ… và nếu thế, họ chính là các nhà thông thái, được tôn vinh?
Tiếp theo, trước đoàn người đó, (vị trí E) là một hình tượng toát lên cái vẻ đền đài, cung điện, nhà thờ có mái vòm và hai ngọn tháo sừng sững hai bên. Trên chân mỗi tháp được khắc họa 2 hàng bông lúa, và đỉnh của chúng là 2 hình tròn có “tròng” (giống mắt chim ở vành tròn thứ hai) như đang thao láo, thị uy, quan sát bờ cõi. Ở giữa nhà vòm đó có một người đang đứng (có lẽ là đứng nghiêng), tay cầm dây buộc vật gì đó giơ lên (có thể là cái chiêng hoặc chuông dùng để chẳng hạn như báo giờ, truyền tin…). Hai bên “ô cửa” (nơi người đó đứng) là 2 “bức vách” mà trên mỗi bức vách thể hiện 7 vòng tròn có chấm giữa (tiền bạc?). Như chúng ta sẽ thấy, còn nhiều chỗ khác trên vành tròn này thể hiện những tập hợp gồm 7 đơn vị. Điều đó cho thấy thời xuất hiện trống đồng Ngọc Lũ, con số 7 (hay đúng hơn là số lượng 7 đơn vị) đã có ý nghĩa rất quan trọng, đến mức được tôn sùng và có tính thiêng liêng trong quan niệm của con người Việt cổ. Quan sát kỹ hơn nữa, ở phần dưới của “nền” nhà, có hai hàng vạch khắc phân bố ở hai bên ô cửa, mà mỗi hàng gồm 10 dấu vạch (đơn vị). Nếu không chú ý tới bông lúa thì tổng số vòng tròn chấm giữa là 14, tổng số dấu vạch là 20 và tổng cả hai loại là 34. Phát hiện này của chúng ta có vĩ đại không? Chắc không, nhưng kể cũng lạ! Dù sao cái khối có vẻ đồ sộ, uy nghi cùng với những khắc họa về thóc lúa, tiền bạc đã khơi gợi rằng đó là nơi tập trung quyền lực, chất chứa nhiều của cải, châu báu, là điện vua phủ chúa, hoặc chí ít cũng là nhà quan đầu lĩnh.
Hình 12: Khảo sát ý nghĩa vành người - vật của trống đồng Ngọc Lũ
Tiếp theo là một “cụm” gồm một hình giống người, trên đầu có con chim đang bay, rồi đến 2 người (một đàn ông, một đàn bà) đứng đối mặt nhau, trong tay mỗi người là một cái gì đó giống như cái gậy dài và giữa họ, dưới mặt đất có đặt một vật thể có thể là cái cối đá (vị trí B). Hình như họ đang giã gạo thì phải, và trong tai chúng ta lúc này đang văng vẳng “tiếng chày trên sóc BoBo”. Tuy nhiên, trên đầu mỗi cây gậy dài lại có gắn 2 tấm gì đó như cờ hiệu hoặc bố cáo. Như đã nêu ra, bên cạnh 2 người như đang giã gạo đó là một hình tuy giống người nhưng (nhìn mãi vẫn thấy) không phải người. Hay đó là người nhưng đã chết? Nếu hình tượng đó thực sự là sự thể hiện về xác người chết thì có thể nói người đó đã “mất” hồn và linh hồn người đó đã thoát xác hóa thành con chim ở phía trên đang bay đi. Cũng có khi đó là hình tượng của người ốm nặng thập tử nhất sinh, sắp chết. Chúng ta chợt nhớ lại thời Hùng Vương. Khi có người lìa đời, việc đầu tiên là người ta giã cối. Tiếng chày cối va chạm phát ra những âm thanh đặc thù theo qui ước, vang xa, đóng vai trò như loan tin cáo phó. Hàng xóm, láng giềng nghe tin sẽ kéo đến phụ giúp tang ma. “Có người thì giã cối làm lệnh, người lân cận nghe tiếng đến cứu” (Lĩnh nam chích quái). Ở người Mường và một số vùng người Việt, tục lệ này vẫn còn được bảo lưu cho mãi đến thời mới qua gần đây. Cụm hoạt cảnh này chắc chỉ mang nội dung như vậy. Cần nói thêm rằng trên mỗi tấm “cờ hiệu” gắn trên đầu mỗi cây gậy (dùng để giã cối) có khắc một hàng vạch và nếu “chịu khó” đếm, chúng ta sẽ thấy đúng 7 vạch
Chúng ta thực chất vẫn chưa hiểu ý nghĩa đích xác của con số 7 trong quan niệm của người Việt cổ xưa, nhưng thấy nó xuất hiện một cách nổi trội trong quá trình thực hiện tang lễ - tang chế cổ truyền của người việt. Cuốn “Phong tục cổ truyền người Việt” do Thục Anh biên soạn (NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội - năm 2007) có kể rằng, trước khi người nhà tắt thở, thân nhân lấy 7 thước (bằng 2,8m ngày nay, nghĩa là 1 thước bằng 0,4m) lụa trắng đắp lên ngực. Khi người ấy thực sự đã chết, thân nhân đem lụa này kết thành hình người có đủ đầu mình chân tay rồi đặt lại lên mình người đã khuất, gọi là Hồn bạch. Lúc nhập quan thì Hồn bạch được để trong linh sàng, linh tọa, tượng trưng cho người quá cố (ngày nay, thay cho Hồn bạch, người ta dùng một bức hình chân dung). Tính từ ngày chết, cứ 7 ngày thì tổ chức một lần cầu siêu và cúng cơm. Cúng như vậy 7 lần. Ngày cuối cùng, tức là ngày thứ 49, được gọi là lễ 49 hay lễ Chung thất. Phật giáo quan niệm rằng tuần Chung thất rất quan trọng, là quá trình đưa người đã khuất lên chùa để nương cửa Phật. Vì vậy, lễ này mà tổ chức tại nhà thì thường có tế lễ, nếu mang lên chùa thì phải rước Hồn bạch và thần chủ lên và làm chay để tụng kinh sám hối. Ở một số nơi, lễ này kéo dài 9 ngày đêm để vong hồn người chết được siêu thăng tịnh độ. Nghi thức làm chay Chung thất gồm 7 lễ: lễ Phật, lễ tam phủ, lễ cầu vong, lễ phá ngục, lễ giải oan, lễ phóng đăng (thả đèn, thả chim), lễ cúng chào. Ngày rằm tháng 7 đầu tiên sau giỗ đầu (giỗ đúng 1 năm sau ngày chết), tang gia làm lễ Đốt mã cho người quá cố. Nếu mất trước ngày rằm tháng 7 thì chưa đến giỗ đầu, phải đốt mã vào ngày Trung Nguyên năm ấy (như vậy là có 2 lần đốt mã). Mã là thứ làm bằng giấy phỏng theo đồ dùng hàng ngày như: quần áo, giày dép, chăn gối, tiền bạc… (bây giờ, thời hiện đại, để người chết được phủ phê, người thân còn gửi (đốt mã) cho cả những đồ dùng “cao cấp” như: nhà lầu, xe hơi, đôla… thậm chí là cả du thuyền, máy bay (đương nhiên là bằng giấy… kém chất lượng thôi!). Nhưng không hiểu sao, chưa thấy ai gửi tàu vũ trụ con thoi cho người thân ở chín suối cả (!)
Tiếp tục “tiến lên”, chúng ta đến hình vẽ thứ ba. Đó là một ngôi nhà hình thuyền, mái cong (ở 2 đầu vút lên, cuộn lại thành 2 vòng tròn không biết là biểu thị về điều gì). Trên mái là con chim đứng “buồn thiu” như có vẻ đang… ngủ. Trong nhà có 2 người ngồi đối diện nhau, cùng dơ tay lên cao như đang chúc tụng nhau trong một cuộc “trà dư tửu hậu”. Hay đó là hai nhà thông thái đang đàm luận về khoa học? Những hình tam giác được khắc họa khá to và rõ ràng sau lưng họ là nhằm ngụ ý gì? Nếu coi mái nhà là một hình thang mà đáy nhỏ ở phía dưới thì trên 2 cạnh bên và cạnh đáy nhỏ, mỗi cạnh có 1 hàng chấm mà số lượng dấu chấm của mỗi hàng là 7 đơn vị. Tổng cộng chúng cho ra số 21. Đặc biệt hơn, ở rìa 2 cạnh bên có hai hàng vạch khắc với số lượng dấu vạch lần lượt là 6 và 8 đơn vị. Tổng cộng của hai hàng là 14 dấu vạch.
Cộng cả vạch lẫn chấm, chúng ta sẽ có con số 35 và… mù tịt, chẳng hiểu nó mang ý tình gì ngoài cái nghĩa “hơi bị phê phán” ngày nay là… dê xồm. Một cách tổng thể thì hình tượng này gợi cho chúng ta sự liên tưởng mãnh liệt đến nhà ở của tầng lớp giàu sang, phú quý.
Hoạt cảnh cuối cùng của phần này là 4 người trong tư thế như đang đua nhau trèo lên 4 cây cột mà gốc của chúng được đặt đúng chính giữa 4 “cái ụ” gồm 4 cái gì đó có hình dạng rất giống trống đồng được đặt trong 4 bệ đỡ. Có nhà khảo cổ học cho rằng 4 người đó đang đánh trống đồng; nhưng theo chúng ta nghĩ thì chắc là không phải và 4 vật giống trống đồng đó cũng không phải là trống đồng. Hoạt cảnh này có thể là sự mô tả về cuộc đo đạc gì đó về không gian hoặc thời gian, mà cũng có thể chỉ đơn giản là sự mô tả về một cuộc vui thể thao (như cột bôi mỡ thời Nguyễn Khuyến chẳng hạn). Hết hoạt cảnh này là đến vị trí D, nơi có vạch phân chia vành tròn thứ 3 thành hai phần, tương tự như ở vị trí C. Có thể hình dung  vạch ngăn ở D cũng đồng thời là biểu tượng của một cái cột cao mà trên đầu đỉnh của nó “phất phới” một mảnh gì đó giống như lá cờ đuôi nheo có hình vòng tròn chấm giữa. Khái niệm “treo giải thưởng” bắt nguồn từ hiện tượng này chăng?
Bắt đầu từ vạch ngăn D là những hoạt cảnh nửa phần còn lại của vành tròn. Tương tự như cách sắp xếp, phân cảnh của nửa đầu phần đầu, ở đây, cũng bắt đầu là một đoàn người ăn mặc cầu kỳ nối nhau đi theo hàng một. Tiếp đến là tòa nhà mái vòm - nơi tập trung quyền lực hay có thể gọi là tòa toàn quyền (vị trí F). Tòa này giống hệt tòa trước, duy chỉ có điều khác là người đứng trong đó giơ cả 2 tay lên Trời. Có thể hình tượng người giơ tay lên trời là biểu thị sự gấp đôi, nhiều hơn, lớn hơn và như thế có thể hiểu là tòa quyền lực này có uy thế hơn tòa quyền lực kia. Đây mới là chốn cung đình nhà vua, còn tòa kia, cao lắm chỉ đóng vai trò như phủ chúa, hay nói rõ hơn là nơi ngự trị của Lạc tướng.
Vị trí của hai tòa nhà mái vòm đó đối ứng nhau qua tâm mặt trống đồng và cũng đồng thời như mốc phân đôi mỗi nửa phần của vành tròn, nghĩa là hai điểm E và F kết hợp với hai điểm C và D, phân định vành tròn thứ ba thành 4 phần tương đối bằng nhau. Phải chăng các nhà thông thái Việt cổ, bố trí như thế để biểu diễn hiện tượng thiên nhiên có 4 mùa khác biệt rõ rệt và biến đổi tuần hoàn qua 4 mùa ấy một cách kế tiếp nhau đến bất tận, với chu trình chuyển hóa qua hết 4 mùa, xét về mặt thời gian (độ dài lâu) là 1 năm? Thậm chí, có thể tưởng tượng thêm rằng, hai điểm E, F hoặc C, D còn đóng cả vai trò là những thời điểm mốc phân đôi một ngày thành ban ngày, ban đêm?
Kế đến là hoạt cảnh “giã cối” vị trí A. Hoạt cảnh này không có gì khác hoạt cảnh “giã cối” ở nửa phần kia. Rồi đến tòa nhà mái cong (làm chúng ta liên tưởng đến đình làng ở làng quê Bắc Bộ hoặc nhà rông của người Thượng - Tây Nguyên). Về vóc dáng thì tòa nhà này cũng giống tòa nhà mái cong “phía bên kia”, nhưng về chi tiết thì có nhiều khác biệt. Tòa nhà này trông có vẻ bề thế hơn (trên mái không phải một mà là hai con chim, trong nhà không phải hai mà là ba hình người). Trên hai đuôi mái cong vút lên của tòa nhà này tuy cũng có 2 vòng tròn nhưng không phải là 2 vòng tròn “trơn” như của tòa nhà kia mà là 2 vòng tròn có chấm giữa và trên đầu chúng còn được thể hiện có cả “mào” (thường được người xưa hiểu như sự phô diễn quyền uy). Phải chăng chúng là tượng trưng cho những đầu rồng, một trong những con vật tổ linh thiêng nhất của dân tộc Việt. (Hai vật linh kia là chim Lạc và rùa. Chúng ta ước đoán, hai tòa nhà mái vòm với hai “con mắt” thao láo rất có thể là hình rùa cách điệu). Ở đây, chỉ có 3 người đang “leo”, người còn lại thì đứng quay lưng lại và hơi ngẩng lên như muốn xác định cái gì đó trên thân cột (hay cây sào) đang cầm trong tay.
Hoạt cảnh cuối cùng của phần này cũng tương tự như hoạt cảnh cuối cùng của phần kia, chỉ có khác chút ít về tư thế, điệu bộ của 4 hình người khắc họa trên đó. Vượt qua hoạt cảnh này chúng ta lại trở về C.
Tại vị trí C là vạch phân cách. Vạch này cũng đóng vai trò như hình tượng một cái cột cao vẽ trên đỉnh cột có treo một miếng giống bảng hiệu gì đó có vẽ một vòng tròn chấm giữa, phía dưới vòng tròn chấm giữa là 3 vạch song song “chiếu” thẳng góc xuống mặt đất.
Nhìn toàn cảnh mặt trống đồng Ngọc Lũ, chúng ta có cảm giác rằng những nhà thông thái và nghệ nhân Việt cổ đã rất tỉ mỉ, chú trọng đến từng chi tiết và đạt đến độ tinh xảo, chính xác cao nhất trong việc khắc họa, bài trí hệ thống hoa văn trên đó. Đó là một công việc hết sức công phu và có tính thiêng liêng, không thể tùy tiện thêm bớt chi tiết và “xê dịch” được. Phải nói rằng hệ thống hoa văn trên mặt trống đồng Ngọc Lũ là thành quả tự hào của nền văn minh Hùng Vương. Nó như một cái đĩa vi tính, chứa đầy ắp tâm tư, tình cảm, nhận thức, quan niệm được cho là tinh túy nhất của một thời đại. Vì lẽ đó, hình khắc như biển hiệu trên đỉnh “cây cột” ở C phải mang một ý nghĩa nào đó không kém phần hệ trọng.
Thời cổ xưa, quá trình tìm hiểu, nhận thức và xác lập thời gian (bản thân Tự Nhiên, vì không cần biết nên cũng không có thời gian, chỉ con người quan sát mới thấy Tự Nhiên bộc lộ ra thời gian nên mới tìm cách xác lập nó!), bắt đầu từ việc quan sát sự vận hành của Mặt Trời và chủ yếu học hỏi được nhiều điều quí báu từ “ông thầy” này. Dựa vào bóng trên mặt đất của cây cối, núi non… do tia Mặt Trời rọi xuống tạo ra mà người ta áng chừng được khoảng thời gian nào đó trong ngày (rồi dần dà vào ban đêm thì nhờ ánh trăng, nhờ sự xê dịch vị trí của các vì sao). Lúc đầu, đơn giản là trồng những cây cột cao để nhờ ánh mặt trời mà đo đạc, xác định, phân chia, qui ước những đơn vị thời gian cho ngày, cho tuần trăng, cho mùa và cho năm một cách ngày càng phù hợp với vận hành biến đổi của thiên nhiên trong thực tại. Quá trình đó cuối cùng và tất yếu dẫn đến việc xác định thời điểm mốc để phân chia thời gian. Thời điểm mốc đó chính là giữa trưa (chính Ngọ, khi cây cột chuẩn “đứng bóng”) đối với ngày và ngày Đông Chí đối với mùa, năm.
Có lẽ không đến nỗi quá đáng nếu cho rằng 4 người ở cạnh cột C đang làm những công việc phục vụ cho một cuộc xác định thời gian và cột C đóng vai trò như cột chuẩn (mẫu) với biển báo trên đầu cột chỉ ra rằng đang là thời điểm chính Ngọ, ngày Đông Chí. Nếu cột ở C là tượng trưng cho thời điểm chính Ngọ, ngày Đông Chí thì đối ứng tương phản với nó là cột D phải tượng trưng cho thời điểm đúng nửa đêm, ngày Hạ Chí (và vòng tròn “rỗng” trên “lá cờ đuôi nheo” treo ở đỉnh cột là tượng trưng cho trăng khuất). Lúc này vị trí E là thời điểm (ngày) Xuân phân và vị trí F là thời điểm (ngày) Thu phân.
Biểu tượng Mặt Trời với những tia soi rọi thẳng góc mặt đất trên đỉnh cột C còn mang hàm ý nào nữa không? Có thể còn!
***
Như một cuộc cưỡi ngựa xem hoa “mini”, chúng ta về đại thể đã khảo sát xong hệ thống hoa văn trên mặt trống đồng Ngọc Lũ. Lúc này, một ý nghĩ lóe sáng trong đầu chúng ta: trong số rất nhiều ý tình hàm chứa ở mặt trống đồng Ngọc Lũ, có một ý tình lớn lao mà các nhà thông thái Việt cổ (và cả Hùng Vương nữa) muốn lưu giữ để truyền đời cho con cháu mai hậu. Ý tình đó như sau:
Nhà nước Văn Lang, do Hùng Vương đứng đầu, là nhà nước minh trị, có vua sáng tôi hiền. Đất nước Văn Lang là một đất nước giàu mạnh, xã hội thịnh vượng thái bình, dân tình thuần phác sống đời vui tươi, hoan lạc. Sắc dân Văn Lang (tiền thân dân tộc Đại Việt (sau này)) là kết quả của một quá trình thống nhất, hòa hợp dân tộc và sự biến đổi thích nghi với điều kiện sống có hoàn cảnh thiên nhiên đặc thù. Thủy tổ của người Văn Lang là Tiên - Rồng. Dân tộc Văn Lang đã từng sinh sống trên lãnh thổ Văn Lang từ thời xa xưa và đến thời Hùng Vương thì đã trải qua 3 thời đại. Thời đại thứ nhất là thời đại Kinh Dương Vương (vành tròn có đàn chim Lạc). Thời đại thứ hai là thời đại Âu - Lạc (còn gọi là thời Hồng Bàng, thời được tượng trưng bằng vành tròn chim - hươu), và thời đại ba là thời đại Hùng Vương với nền văn minh Văn Lang rực rỡ, chói lọi (được biểu trưng bằng vành tròn thứ ba và hình tròn trung tâm). Nhưng trước cả ba thời đại đó là thời đại hỗn mang (vành hoa văn hình học ngoài cùng).
Chúng ta nói thêm: truyền thuyết cổ xưa của nhiều dân tộc trên thế giới thường nói về một thời đại hỗn mang, hồng hoang trước khi xuất hiện loài người. Có như thế không phải là trời đất hỗn mang, như “trộn lộn lại làm một” thật mà gián tiếp (và vô tình) vạch ra rằng con người “thấy” như vậy là do cái tâm trí còn hỗn mang của bản thân mình. Con người tối cổ đã chưa đủ sức tưởng tượng ra thời chưa có con người (không có con người quan sát, nhìn nhận thì trời - đất hỗn mang, chưa phân là điều tất nhiên!). Nếu thời đại Hùng Vương có công xác định chủ quyền lãnh thổ dựng nên một đất nước thịnh trị của dân tộc Văn Lang (mà sau này gọi là Dân tộc Việt) thì công “khai thiên lập địa” định hình lãnh thổ tự nhiên, là của thời đại Ông Đùng (!). Phải chăng Ông Đùng còn có tên là ông… Bùi Liển (Biển Lùi)?
Chính khảo cổ học và truyền thuyết lịch sử đã dẫn đến lời khẳng định là người Việt cổ thời Hùng Vương đã có ý niệm rõ ràng về truyền thống dân tộc và ý thức thờ cúng, tôn sùng tổ tiên. Có thể họ đã xác định được tương đối thời gian tồn tại của các đời vua trước đó trong thời đại Hùng Vương, thậm chí cũng biết một cách áng chừng thời gian tồn tại của hai thời đại trước đó. Mặt trống đồng Ngọc Lũ có lưu giữ những thông tin ấy không? Có thể là có. Tuy nhiên, qua bao nhiêu thời gian, qua bao nhiêu biến động xã hội vô cùng lớn lao, các nhà thông thái Việt cổ mai một dần và chìa khóa mật mã trong tay họ đã vĩnh viễn thất lạc. Sự tàn phá, tận diệt của Mã Viện đối với nền văn hóa có một thời văn minh rực rỡ, ẩn chứa nhiều điều kỳ diệu đã là tội ác đối với Dân tộc Việt nói riêng và đối với thế giới nói chung. Nhưng thôi, lịch sử đã là như thế, giận hờn, tiếc nuối mà làm gì!
Chúng ta nói sang vấn đề khác.
Toán học ra đời trên cơ sở đầu tiên là số học, sau đó là hình học. Số học là linh hồn của hình học và hình học là thể xác của số học.
Để chế tác được hệ thống hoa văn trên mặt trống đồng Ngọc Lũ, trước đó, các nhà thông thái Việt cổ đã phải am tường về nhiều vấn đề số học và hình học, nhất là hình học. Việc phân chia đường tròn thành những phần bằng nhau với số phần lẻ không thể chia chính xác bằng thước kẻ và compa đã buộc họ phải “động não”. Nhất là quá trình đo đạc xác định thời gian nhờ ánh nắng Mặt Trời càng buộc họ phải tìm hiểu ngày càng sâu hơn về những vấn đề như dựng hình, quan hệ tỉ lệ, tính chu vi, diện tích… Có một câu hỏi đặt ra là trong quá trình “làm việc” với tia nắng mặt trời, phải đo đạc khoảng cách, xác định xa, gần, cao, thấp… họ có bao giờ thắc mắc mặt trời cao bao nhiêu và đi tìm lời giải đáp (bởi vì, chính chúng ta ngày nay cũng thấy, mặt trời hình như không đến nỗi cao lắm, thậm chí chưa chắc đã cao hơn… mặt trăng, còn mặt trăng thì gần đến nỗi thấy rõ cả cây đa, chú Cuội)?
Chúng ta đột ngột nêu ra thắc mắc như thế vì thấy ở cột C có một biển hiệu rất giống với một thứ xuất hiện trong phong tục cổ truyền người Việt.
Có thể các nhà thông thái Việt cổ đã từng thực hiện việc đo đạc, tính toán xem mặt trời cao bao nhiêu (vì mặt trời ở trên trời nên nếu biết mặt trời cao bao nhiêu so với mặt đất thì cũng có nghĩa là trời cao bấy nhiêu). Nhưng họ đã tiến hành như thế nào? Chúng ta khó lòng biết được. Tuy nhiên dưới đây, chúng ta sẽ trình bày một cách tính góp vui và mai kia, nếu có dịp, sẽ “bắc thang lên hỏi Ông Trời” xem có đúng ngày xưa tổ tiên tính như vậy không?
Trước hết cần phải nói chữa là vừa rồi, chúng ta cho rằng chiếc cột “trồng” tại vị trí C là tượng trưng cho ngày Đông Chí, thì đó chỉ là võ đoán. Sao không cho vị trí đó là tượng trưng cho ngày lập mùa nào đó, vì làm như vậy sẽ thấy sự phân định các mùa trên vành tròn thứ ba rõ ràng, mạch lạc hơn? Hơn nữa, nếu “chiếu xuống” vành tròn thứ hai sẽ thấy thời điểm C là bắt đầu của một mùa có đàn chim (én?) bay. Vậy thì sao không chọn thời điểm C (cũng có thể chọn thời điểm D) làm thời điểm Lập Xuân? Chúng ta sẽ chọn C là tượng trưng cho ngày bắt đầu của mùa Xuân vì lẽ trên cột C xuất hiện ánh mặt trời ấm áp qua một mùa Đông u ám và lạnh giá. Như thế các điểm C, E, D, F lần lượt sẽ tượng trưng cho Lập Xuân, Lập Hạ, Lập Thu và Lập Đông.
Muốn biết Trời cao bao nhiêu, việc làm đầu tiên để chuẩn bị cho cuộc đo đạc và tính toán vào chính ngọ ngày Lập Xuân (mà thuở xa xưa kia, chắc hẳn là ngày Mùng Một Tết), là trồng cây cột (hay sào) chuẩn mốc. Trồng thì dễ rồi, nhưng người xưa làm cách nào mà biết nó thẳng đứng (vuông góc) so với mặt đất (tạm cho rằng mặt đất đã được làm phẳng và trùng với mặt phẳng chân trời - là mặt phẳng tiếp xúc với Trái Đất (lúc này được cho là có hình cầu chuẩn) tại nơi chân cột). Nếu đã có “êke” thì dùng “êke” để định vị và kiểm tra lại. Nếu không sẵn “êke” thì dựa vào bản chất mối quan hệ của 3 khoảng cách có độ dài lần lượt là 3, 4, 5 hoặc 6, 8, 10 để xác định (xem hình 13a). Nhưng để cố định cột mốc hoặc những cột phụ trong suốt quá trình thì làm thế nào? Có thể hình tượng mà chúng ta từng gọi là “cái ụ” thể hiện ở vành thứ ba trên trống đồng Ngọc Lũ đảm nhận chức năng đó.
Dù có “dựng đứng” được cột chuẩn mốc chính xác đến mấy và xác định được thời điểm chính Ngọ đúng đến mấy, mà vị trí Trái Đất lúc đó “chưa hợp thời” thì sự “đứng bóng” của cột chuẩn mốc vẫn… còn bóng (hình 13b).
Cũng trên hình 13b, chúng ta thấy vào lúc chính Ngọ (giữa trưa), sẽ có (những) tia mặt trời đi qua đỉnh O của cột mốc, đến mặt đất (mặt phẳng chân trời) tại K. CK chính là bóng của cột mốc CO lúc “đứng bóng”. Dựng một cột phụ (hay cột còn gọi là cột tiêu) BF sao cho nó vuông góc với mặt đất và tia sáng OK cũng đi qua đỉnh B. FK chính là bóng của cột BF lúc chính Ngọ. Trên mặt đất, vẽ đường thẳng qua K, vuông góc với CK. Trên đường thẳng này, chọn 2 điểm I và L sao cho: IK bằng KL. Qua B dựng một đường thẳng khác, song song với đường thẳng qua K vừa xác định. Trên đường thẳng này, chọn 2 điểm A và D sao cho AB=AD=IK=KL. Dựng hai cột tiêu mới có đỉnh lần lượt là A và D, gốc lần lượt là G và E sao cho chúng vuông góc với mặt đất. Rõ ràng là đường thẳng qua G và E cũng qua F và nó phải song song với 2 đường thẳng vừa dựng.
Hình 13: Người Việt cổ xưa đo đường đến Thiên đình bằng cách này chăng?

Nếu giả sử rằng vị trí Mặt Trời là tại điểm O (đỉnh của cột chuẩn mốc) thì sẽ có hai tia sáng phát ra từ O qua A đến H và qua D đến M. GH và EM chính là bóng của cột AG và cột DM vào thời điểm chính Ngọ. Hãy tưởng tượng rằng điểm O ở rất cao, rất khó với tới và khi dựng cột OC, chúng ta quên đo chiều cao của nó. Bây giờ muốn xác định chiều cao của OC, ta chỉ còn cách xác định gián tiếp.
Việc này được thực hiện một cách dễ dàng vì chúng ta có thể đo đạc được các khoảng cách ở trên mặt đất và ở tầm thấp (với tay tới được!). Với số liệu đó, dựa vào hiện tượng tam giác đồng dạng, trong nháy mắt, chúng ta sẽ biết được trời cao bao nhiêu (bằng độ dài cột OC!).
Tuy nhiên, đó chỉ là giả định. Trong thực tại, chốn Thiên đình (đồng thời cũng là cõi Thiên Đường) không bao giờ “sà xuống” thấp như thế được vì vướng núi non, nhất là sợ núi Tu Di chọc thủng (theo ý chúng ta thì trời cao bằng chiều cao của Tu Di huyền thoại và đỉnh của Tu Di do đó được gọi là Đỉnh của ngàn đời mơ ước hay Thiên đỉnh, sau này các nhà thiên văn học “gọi lung tung” bất cứ điểm cao nào có vẻ xa vời cũng là Thiên đỉnh mà chưa bao giờ biết được chỉ có duy nhất một Thiên đỉnh!!!).
Trực quan cho thấy Mặt Trời ở đâu đó tít xa vời trên nền trời xanh, chiếu vô vàn tia sáng xuống Trần gian, trong đó có (qui ước là) một tia đi qua đỉnh cột OC, đến mặt đất tạo thành bóng của cột OC là CK. Vậy, nếu đi lên trời theo “đường KO sẽ tới được Mặt trời.
Cùng lúc đó, từ Mặt trời cũng sẽ có 2 tia sáng mà mỗi tia đi qua mỗi đỉnh cột phụ A và D đến chạm mặt đất tại I’ và L’, nghĩa là nếu đi theo “đường” I’A hay “đường” L’D cũng “đụng” phải Mặt trời. Nói cách khác, vị trí thực của Mặt Trời (gọi là điểm O’) là nơi gặp gỡ của 3 tia sáng: và tia có đoạn KO.
Vì Cổ Loa, kinh đô nước Văn Lang, cũng là nơi thực hiện việc đo đạc (chúng ta đoán mò thế!), thuộc vùng nhiệt đới, nên “độ đứng bóng” trung bình của cột OC lúc giữa trưa là cao (đỉnh bóng gần chân cột), thậm chí có hai thời điểm hoàn toàn đứng bóng. Hiện tượng này kết hợp với vị trí thực của Mặt trời ở quá xa làm cho ngay cả khi chưa hoàn toàn đứng bóng thì khoảng cách từ C đến Mặt trời được coi như bằng khoảng cách từ K đến đó và nếu thực sự đứng bóng thì K trùng với C. Vậy bài toán sẽ được đưa về dạng dễ thấy ở hình 12c.
Hình 12c thể hiện lúc chọn a=3, b=4. Do đó c=5, cột chuẩn đã được “dựng đứng”. Tam giác AHI đồng dạng với tam giác OHK và vì HI=1 nên OK=12.
Tuy nhiên, Mặt trời không ở O mà là O’ nên 2 tia đi qua A và D, không tới I và L mà tới I’ và L’. Lúc này, để xác định “Trời cao bao nhiêu”, chúng ta phải đo đoạn I’I. Sau khi đã biết I’I=x, thì “đường lên Trời” ngắn nhất (lúc đứng bóng hoàn toàn) sẽ có độ dài là:
                   
Nếu cho a=7, b=24 (nghĩa là đoạn HI bằng 17) thì c=25 (mối quan hệ: 72+242=252), và:
                   
Rốt cuộc, muốn biết xem Trời cao bao nhiêu thì việc mấu chốt là phải đo được x (hoặc y). Chắc rằng các nhà thông thái Việt cổ nếu có “phát hiện” được ra cách tính toán vừa rườm rà vừa “hơi” mất chính xác này thì cũng để… cho vui thôi chứ chẳng thể tính ra cái khoảng cách “thăm thẳm chiều trôi” O’C vì x (hoặc y) là không thể đo được. Ngày nay chúng ta biết khoảng cách từ Trái đất đến Mặt trời trung bình là 149,6.106 km. Để “rộng đường dư luận”, chúng ta cũng chọn các số độ dài của chúng ta là km, và sẽ có:
                   
Những khoảng cách gây tuyệt vọng lớn lao trước ánh sáng ban ngày!
Tuy nhiên, với cách tương tự, dùng những bộ ba số 3 - 4 - 5; 6 - 8 - 10; 7 - 24 - 25 và có thể nhiều hơn nữa, người Việt cổ có thể xác định những độ xa, độ cao do nhiều nguyên nhân không tiếp cận được, một cách tương đối hiệu quả (chẳng hạn đo núi cao, hồ rộng, sông dài…) ở cõi… Trần Thế!
Có thể việc tìm cách đo trời cao bao nhiêu, là ước vọng không thành của các nhà thông thái Việt cổ, nhưng họ dựng cây cột chuẩn OC không phải vì mục đích ấy mà là để nghiên cứu điều chỉnh lại thời gian, xác định ngày lập xuân, theo dõi sự chuyển hóa 4 mùa, quan sát sự vận hành của mặt trời… và có thể là của cả trăng, sao nữa. Chính vì lẽ đó mà cột OC có tầm quan trọng đặc biệt để được thể hiện trên mặt trống đồng Ngọc Lũ chăng? Hơn thế nữa, sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang của mình, cây cột OC không mất đi, mà hóa thân thành cây Nêu trong Tết cổ truyền của dân tộc Việt sau này, trở thành một hoài niệm thiêng liêng.
Nói thêm về các bộ số 6 - 8 - 10; 7 - 24 - 25 vì chúng ta vẫn còn “khắc khoải” về sự lạ lùng của chúng.
Nếu cộng ba số 6, 8, 10 lại, sẽ có số 24 - là một số trong bộ số thứ hai. Nếu cộng 6 và 8, sẽ có số 14. Nhân 14 lên 4 lần, sẽ có kết quả bằng tổng của ba số 7, 24, 25. Đem chia số 6 cho số 8, sẽ có số 0,75. Nhân 0,75 với 9 sẽ có số 6,75; cộng 6, 7, 5 lại, được số 18 rồi chia cho 2 sẽ có lại số 9. Nhưng nếu nhân 0,75 với 96 sẽ xuất hiện số 72. Số 72 chia cho 9 rõ ràng ra số 8 (thuộc bộ số thứ nhất), hoặc chia cho 4 để có số 18.
Lấy số 25 chia cho số 24, xuất hiện số 1,041666… và khi nghịch đảo nó sẽ có số 0,96. Nếu không chú ý tới dấu “phẩy” thập phân thì số 96 ám ảnh chúng ta ghê gớm. Ngày xưa, đơn vị độ dài gọi là “thước” và 1 thước bằng 0,4 m ngày nay. Nếu nhân 2 bộ số trên cho 0,4 (để qui ra “mét”) thì:
1/ (6 x 0,4)2 + (8 x 0,4)2 = (10 x 0,4)2 =
= 5,76 + 10,24 = 16;
hay có bộ ba số mới là: 2,4 - 3,2 - 4;
2/ (7 x 0,4)2 + (24 x 0,4)2 = (25 x 0,4)2 =
= 7,84 + 92,16 = 100;
hay có bộ ba số mới là: 2,8 - 9,6 - 10. Con số 10 ở bộ số này gợi cho chúng ta một ý sau:
     (0,6)2 + (0,8)2 = (0,28)2 + (0,96)2 = 12;
hay cũng là: 602 + 802 = 282 + 962 = 1002.
Còn nữa, nếu lấy 7 nhân với chính nó (bình phương) sẽ cho ra một con số là kết quả của tổng hai số kia trong bộ số (24 + 25 = 49).
Rất nhiều những con số ở trên có mặt một cách “tường minh” hoặc ẩn tàng trên mặt trống đồng Ngọc Lũ. Vì sao vậy? Có dụng ý hay là sự ngẫu nhiên vô tình? Tại sao lấy số thiêng liêng của Trời - Đất (số 15) trừ đi 1 thì ra số cánh của ngôi sao (số 14) trên trống đồng Ngọc Lũ; tại sao lấy số đại diễn của Trời (số 50) trừ đi 1 lại ra số không - thời gian (số 7) bình phương, tại sao lấy số 96 trừ đi số thiêng liêng Trời - Đất (cũng là tổng 2 số hạng của 96, số 15) lại cho ra số 81, là bình phương của số tiểu diễn Trời - Đất (số 9), tại sao… và tại sao?
Đối với những bậc uyên bác thì vấn đề thật tầm thường, chả có gì phải ầm ĩ. Thậm chí họ còn cho những kẻ đặt ra những vấn đề và câu hỏi như trên là bị điên. Nhưng chúng ta đâu có điên! Chúng ta chỉ hoang tưởng thôi. Hay chúng ta đã tưng tửng mà không hay biết? Thế nào thì thế, chúng ta, trong cái thế giới riêng tư, lung linh huyền hoặc của mình vẫn tin tưởng vào điều này: trong thế giới các con số, sự biến đổi của chúng, sự vận động chuyển hóa qua lại giữa chúng, dù hết sức đặc thù, vẫn phải tuân thủ những nguyên lý cơ bản nhất của Tự nhiên Tồn Tại, chẳng hạn như nguyên lý lặp lại, nguyên lý tương tự , nguyên lý bảo toàn, nguyên lý nhân quả… chỉ vì chúng ta lầm tưởng rằng con người đã tạo dựng ra chúng một cách tuyệt đối, đã tầm thường hóa chúng, nên cũng thường quan sát chúng một cách trịch thượng. Chính vì thế mà chúng ta chưa hiểu hết chúng để rồi khi cần thiết phải “đụng” đến chúng thì thấy hết bất ngờ này đến bất ngờ khác, thấy chúng đột nhiên “nhảy nhót” tưng bừng, vừa lạ lùng, vừa ly kỳ, lại cũng vừa có cái vẻ định mệnh như có Thượng Đế nhúng tay vào. Đến giờ đây, chúng ta mi hiểu vì sao Pitago cùng các môn đồ của ông đã mê man trong thế giới các con số, đã tôn thờ và hiến dâng cuộc đời cho thế giới ấy.
***
Dù còn ngờ ngợ, nhưng chúng ta có cảm giác đã khám phá ra một trong những bí ẩn huyền diệu nhất của trống đồng Ngọc Lũ. Nếu sự khám phá của chúng ta sau này được khảo cổ học chứng thực hoặc xác nhận, thì đó quả là một thành tích có một không hai của chúng ta đối với dòng giống tổ tiên và chúng ta sẽ kính dâng lên Tổ Quốc một cách đầy tự hào.
Nhưng biết đâu chừng cái phát kiến tưởng chừng vĩ…, vĩ gì nhỉ, à, vĩ đại ấy lại hóa ra chỉ là nguyên nhân tầm phào và có thể sẽ như trường hợp Khổng An Quốc bên Tàu, bị, không, “được” chứ, được lưu danh như một kẻ có tội nặng nhất đối với thánh nhân.
Đã được lưu vào lịch sử thì danh thơm hay thối cũng chả sao. Chết rồi thì biết quái gì nữa?! Chỉ sợ xú danh bị lưu truyền lúc còn sống mới ê mặt mà thôi.
Đùa vui tý chút cho đỡ mệt thế chứ chắc mọi người cũng hiểu rằng sai lầm là thường xuyên xuất hiện trong nghiên cứu, khảo sát khoa học về tự nhiên, xã hội, cũng như lịch sử. Chính nhờ có thường xuyên sai lầm, lú lẫn mà chân lý lộ diện. Lịch sử đã chứng thực nhiều chân lý vĩ đại bỗng dưng sụp đổ thành những lầm lạc ngộ nghĩnh nhưng cũng có nhiều những phát kiến ngớ ngẩn, ấu trĩ và thậm chí là vớ vẩn lại ươm mầm cho những chân lý thực sự vĩ đại, thực sự… chân lý.
Chúng ta đặt cược vào niềm tin của mình và tất nhiên là sẽ trình bày sự khám phá cuối cùng về trống đồng Ngọc Lũ. Tuy nhiên, trước hết, chúng ta sẽ kể đôi lời về cái Tết cổ truyền của dân tộc Việt. Trước đây, lúc còn trẻ, chúng ta đâu thấm thía được chữ “ăn Tết” của ông bà. Bây giờ, đã luống tuổi, chẳng còn được “ăn” mấy cái Tết nữa, mới biết Tết đâu phải chỉ để “ăn” mà còn để lo toan, để trả nợ, để đền ơn đáp nghĩa, và cả ngắm nghía, thăm thú, suy ngẫm nữa. Nói chung, muốn thưởng thức một cái Tết trọn vẹn thì phải hiểu Tết để biết cách tổ chức… ăn Tết hòa nhất, hợp nhất, vui vẻ nhất, rình rang nhất mà cũng giản dị nhất, gọn nhẹ nhất.
Lịch sử luôn được nhận thức và nhận thức lại qua từng thời đại sau đó. Sự tăng tiến về nhận thức cũng như sự sâu sắc hóa về quan niệm đã làm cho việc xét nghiệm lại quá khứ trở thành đòi hỏi có tính thời sự của hiện tại. Đó cũng chính là quá trình bộ phận nằm trong quá trình dạy và học của nhân loại.
Khám phá ra những bí ẩn lịch sử là một công việc cực kỳ khó khăn và thường là vấp váp cay đắng cũng như thường gặt hái chua chát, thậm chí là ê chề mà có ít khi tận hưởng được vinh quang vì vinh quang nếu có, cũng thường đến muộn màng, khi “chính chủ” đã… từ trần (!). Ấy vậy mà công việc đó đã lôi cuốn, quyến rũ “ghê gớm” biết bao nhiêu thế hệ, biết bao nhiêu cuộc đời. Kể ra, tính tò mò tọc mạch của con người thật lạ lùng!.
Đối với mọi nhà nghiên cứu lịch sử, có lẽ, để có cơ may khám phá ra một bí ẩn nào đó, thì đều tiên quyết, nói như Lão Tử, là phải giữ cho được cái tâm thần “cực hư, cực tĩnh”, nghĩa là tin tưởng nhưng cũng hoài nghi, không cả tin mà cũng không đa nghi, biết quyết đoán trong do dự và biết do dự để quyết đoán, vừa trọng vừa khinh, đồng thời không trọng không khinh trước mọi thông tin trong chính sử cũng như trong truyền thuyết dân gian…
Phong tục tập quán cổ truyền dân tộc không phải bỗng dưng xuất hiện một cách tùy tiện kiểu hứng chí hay từ trên trời vô tình rơi xuống, mà có nguồn gốc sâu xa từ hiện thực đời sống xã hội của những thời quá khứ được coi là cũ kỹ hay cổ xưa. Phong tục tập quán cổ truyền (kể cả cổ hủ!) cũng chính là một nơi gìn giữ “sử xanh”. Ở đó còn ẩn chứa nhiều những thông tin quí giá tuy hầu hết là dưới dạng những vết tích, những dấu ấn đã bị phủ lớp áo huyền hoặc, mê linh bởi những đổi thay thời cuộc, méo mó ít nhiều bởi lăng kính dày đặc thời gian về những sự vật - hiện tượng đã từng một thời hiện hữu mà mục đích đầu tiên là phục vụ cho quốc kế dân sinh, chứ chưa là vì điều gì khác. Có thể nói, nghiên cứu phong tục tập quán cổ truyền cũng là một định hướng không nên bỏ qua trong quá trình tìm hiểu những chi tiết cấu thành những khóa mã để khui ra những bí ẩn lịch sử.
Dưới đây là những câu chuyện “tai nghe mắt thấy” chủ yếu trong cuốn “Tết cổ truyền của người Việt” do Lê Nguyên Vũ chủ biên, nhiều mẩu trong một số sách báo, tạp chí khác. Trước khi kể, chúng ta cũng nên thỏa thuận với nhau rằng phong tục tập quán của bất cứ dân tộc nào, trong suốt quá trình hình thành và tồn tại, đã mang những bản sắc vừa riêng vừa chung, vừa đặc thù vừa phổ biến do có sự giao lưu, học hỏi, kế thừa những tinh hoa, văn hóa với các dân tộc khác trong khu vực. Do đó mà cũng khó thấy được nguồn gốc nguyên thủy, điểm xuất phát đầu tiên của chúng.
Vào khoảng rằm tháng Chạp, hơi hướng của Tết đã biểu lộ… Người ta bắt đầu lo sửa sang, dọn dẹp nhà cửa, trang trí nội thất. Thờ cúng tổ tiên là tập tục truyền thống lâu đời, và thiêng liêng nhất của dân tộc Việt nên gia đình nào cũng chú trọng đặc biệt đến bàn thờ tổ tiên. Bàn thờ tổ tiên (hay còn gọi là Bàn thờ gia tiên) bao giờ cũng được kê trang trọng ở gian giữa, nơi thanh cao nhất của ngôi nhà. Các đồ vật dùng cho việc thờ cúng đều được đánh bóng (đồ đồng), lau chùi sạch đẹp như mới.
Thông thường và đối với những gia đình tương đối sung túc thì bàn thờ gia tiên được chia làm 2 phần: trong, ngoài. Phần trong kê chiếc sập sơn son thiếp vàng trên đôi mễ cao khoảng 1m. Sát tường là thần chủ (hoặc bài vị) đựng trong khám, đặt trên một cái bệ. Nếu không để thần chủ thì thay bằng một cỗ ỷ hoặc cỗ ngai tượng trưng cho ngôi vị tổ tiên. Trước cỗ ỷ là 2 chiếc mâm có chân, hình chữ nhật. Mâm trong nhỏ, trên đặt chiếc tam sơn. Tam sơn là một đồ thờ bằng gỗ chia 3 phần bằng nhau như 3 bệ liền thân, bệ giữa nhô cao, 2 bệ hai bên thấp bằng nhau. Tam sơn dùng để lễ vật: rượu, nước. Mâm ngoài to hơn (khoảng 80cm x 60cm) dùng để cỗ mặn trong những ngày tháng cúng giỗ, lễ, Tết.
Sau chiếc màn phân cách bằng the hoặc vải tùy ý, gọi là “y môn” (màn thờ) là phần ngoài của bàn thờ. Sát y môn là một hương án cao được sơn son thiếp vàng. Chính giữa hương án là một bình bằng sứ để cắm hương (nhang). Sát sau bình hương là cái kỷ nhỏ trên có 3 đài gỗ có nắp đậy 3 chén rượu. Hai cây đèn đối xứng nhau ở hai bên bình hương. Nhà cầu kỳ thì sắm thêm 2 con hạc (bằng gỗ hoặc bằng đồng), mỏ ngậm cuống lá sen để đặt đĩa đèn (xưa, đèn thắp bằng dầu lạc, bấc để trong đĩa hoặc nến). Cạnh mỗi đĩa đèn là một ống chân tiện, miệng hơi loe, dùng để đựng hương. Có khi thêm 2 lọ độc bình đặt hai bên, sau con hạc. Ở giữa, trước bình hương là mâm bồng sơn son, chân tiện, để bày ngũ quả. Hai bên bàn thờ thường là một vài đôi cột gỗ theo kiến trúc nhà gỗ cổ, làm cho khu vực thờ thêm tôn kính, linh thiêng. Ngoài ra, đối với những nhà được triều đình sắc phong phẩm trật thì nơi thờ cúng còn bày thêm hàm sắc; nhà có người làm quan văn, đỗ đạt còn bày thêm cờ, biểu, chiêng, trống, bộ bát bửu (8 thứ quí: túi thơ, quạt, bầu rượu…); nhà có người làm quan võ, có võ công thì bày đủ bộ “chấp kính” (dùi đồng, phủ việt, côn, đao, mâu, trùy…) bằng đồng hoặc bằng gỗ sơn son thiếp vàng; rồi thêm hoành phi, câu đối…
Tết là lễ trọng đại nhất của dân tộc Việt. Vì thế người Việt xưa còn gọi là “Tết cả”. Từ ngàn năm nay, như thông lệ, cứ khoảng đầu tháng chạp là mọi người đều đã nghĩ đến Tết: “Chạp đến, Tết đuổi sau lưng!”. Một năm trời làm lụng vất vả, chắt bóp có vẻ như chỉ để dồn cho cái Tết. Háo hức đấy, nhưng cũng đầy lo toan. Biết bao nhiêu việc phải làm, nào là sửa sang, trang hoàng nhà cửa, nào là thu xếp những công việc còn dở dang trong năm, trang trải nợ nần, bày biện cỗ bàn…; biết bao nhiêu thứ phải chi tiêu như biếu xén, mua sắm đủ thứ từ đồ ăn thức uống đến hương, đèn, tranh, pháo, hoa… cho Tết; biết bao nhiêu suy tính đắn đo trong việc tổ chức ăn Tết cũng như cho cuộc sống sau Tết. Nhà nào giàu có, sung túc thì không nói làm gì. Những nhà nghèo khó, non tiền ít thóc, lâm nợ mới ái ngại. Nhưng dù có ái ngại mấy thì cũng cố sao cho tươm tất cái Tết: “Người ta mười, mình có kém cũng phải dăm ba…”. Cái sự “cố gắng ăn Tết” ấy bộc lộ ra một đức tính cảm động mà tuyệt đẹp của loài người nói chung và của dân tộc Việt nói riêng: “Đói cho sạch, rách cho thơm”. Tiếng chặc lưỡi thông dụng nhất về cái Tết là “Tết nhất!” để hàm ý Tết đạt nhiều kỷ lục trong một năm: buôn bán đắt nhất, tiêu pha nhất… Nhưng có lẽ cái hàm ý sâu xa nhất là vui nhất mà cũng buồn nhất. Các cụ xưa nói:
                           Khôn ngoan đến cửa quan mới biết
                           Giàu có ba mươi tết mới hay
Và:
                           Ai sinh cái Tết làm chi
                           Để cho kẻ khó vậy thì khó thêm
Hay còn có câu đối:
                           Năm ngoái Tết! Năm nay Tết! Tết mãi!
                           Đứa lớn thầy! Đứa nhỏ thầy! Thầy đây!
Đến khoảng rằm tháng Chạp thì không khí Tết càng lộ rõ. Những người đi làm ở xa quê, xa gia đình đã nôn nao đến ngày “về quê ăn Tết”. Nhịp sống xã hội hối hả hơn. Hình như ai cũng cố gắng, hoàn tất những phần việc cuối cùng đã hoạch định để sớm đón Tết. Quang cảnh nhộn nhịp, rộn ràng đã bắt đầu bao trùm lên khắp nơi từ làng quê đến phố thị. Nhưng không khí Tết biểu hiện nổi trội, rõ rệt nhất chính là ở các chợ. Vào lúc này, chẳng đâu đông vui bằng chợ. Trăm ngả đường đổ về lối chợ. Chợ quê ngày xưa rất đa dạng, nào là chợ hôm, chợ làng, chợ đình, nào là chợ chùa, chợ giếng, chợ bến, nào là chợ tổng, chợ huyện… Chợ nào cũng ăm ắp hàng họ, bày bán lan tràn ra cả đường đi. Ngoài những mặt hàng thông thường, còn xuất hiện nhiều mặt hàng mà dịp Tết mới có. Sự bày biện có phần khoa trương, cầu kỳ hơn ngày thường với nhiều màu sắc bắt mắt làm cho không gian các chợ trở nên tươi sáng, rực rỡ, sầm uất và vì thế mà có cảm giác như các chợ có vẻ mới lạ, to rộng hơn.
Vào khoảng từ 23 đến 27 tháng Chạp thì chợ được gọi là chợ Tết. Còn những ngày họp chợ 28, 29 (hay 29, 30) thì được người ta gọi là phiên áp Tết. Không biết tự bao giờ mà chợ Tết đã thực sự trở thành nơi lễ hội, thưởng lãm. Chợ Tết tấp nập, ồn ã không chỉ bởi người mua, kẻ bán mà còn bởi đông người đến chợ với mục đích đơn giản là… đi chơi, ngắm nghía. Đi chợ Tết đã là niềm hứng khởi của bao đời, từ đám con nít đến ông già, bà cả. Thật không có chợ nào đông như chợ Tết, vui như chợ Tết, đẹp như chợ Tết mà cũng đắt như chợ Tết…
Chưa thực sự là Tết nhưng có thể coi ngày 23 tháng Chạp là ngày “mở cổng” dẫn vào Tết. Theo dân gian thì đó là ngày ông Táo chầu Trời. Nhà nào vào ngày này cũng làm lễ cúng, tiễn đưa ông Táo lên Thiên đình để bẩm báo với Ngọc Hoàng Thượng Đế về những “tai nghe mắt thấy” nơi Trần thế trong một năm qua.
Các nhà nghiên cứu đều cho rằng tục thờ cúng ông Táo ở Việt Nam có xuất xứ Trung Quốc. Người Trung Quốc còn gọi ông Táo bằng những tên khác nhau, như: Táo Vương, Táo Quân, Đông Trù Tư Mệnh, Nhất Gia Chi Chủ… Về nguồn gốc của tập tục này, có thuyết cho rằng ông Táo lúc đó chính là Thần Lửa, do Viêm Đế (vị vua đầu tiên của Trung Quốc theo truyền thuyết) sau khi chết, hóa kiếp ra. Thuyết khác lại nói ông Táo là Chúc Dung, con Chuyên Húc (một ông vua khác cũng theo truyền thuyết). Nói chung, càng về sau thì càng có nhiều thuyết về sự ra đời của ông Táo, không biết tin vào thuyết nào. Có người bảo tục thờ Táo Quân của Trung Quốc có từ thời nhà Hạ, người thì bảo xuất hiện vào thời nhà Thương, cũng có người khẳng định tục đó chỉ có thể xuất hiện vào đời nhà Chu. Trong chuyện kể dân gian Trung Quốc có chuyện về hai anh em nhà họ Trương, người anh làm nghề đốt lò, xây bếp, còn người em, chuyên việc vẽ tranh, nặn tượng. Người anh vốn tốt bụng, thường xuyên khuyên bảo mọi người ăn ở hòa thuận và đứng ra can gián nhiều cuộc xô xát. Sau khi người anh chết, người em, để hạn chế tình trạng mất đoàn kết ở các gia đình, đã dựng chuyện người anh được Ngọc Hoàng phong là Táo Vương, giao cho cai quản việc bếp núc và theo dõi mọi chuyện tốt xấu của từng gia đình để báo về Trời vào dịp cuối năm.
Vai trò, chức trách của ông Táo cũng thay đổi theo thời gian. Vào thời Tiên Tần, ông Táo chỉ lo việc bếp núc, nhưng từ thời Hán trở đi, ông Táo được tôn thành một vị thần được Ngọc Hoàng Thượng Đế phái xuống trần gian để giám sát công, tội của con người, của từng gia đình. Cuối mỗi năm, ông Táo phải về Trời bẩm báo và căn cứ vào bẩm báo này mà Ngọc Hoàng phán xử, thưởng phạt. Trước thời Hán, ngày về chầu Trời của ông Táo được định vào tháng tư âm lịch, sau đó thay đổi nhiều và đến thời Đường - Tống trở đi thì cố định vào hai ngày 23 hoặc 24 tháng Chạp (ở miền bắc Trung Quốc là ngày 23, ở miền nam là ngày 24).
Lễ cúng đưa ông Táo được người Trung Quốc rất coi trọng, nhất là vào thời nhà Thanh. Triều đình nhà Thanh từng qui định: “Toàn bộ nha sổ trong ngày hôm đó nhất loạt niêm phong ấn tín, không thụ lý các công việc dân sự, quan viên đều được về nhà để đưa ông Táo”. Vua Càn Long, trong 60 năm trị vì của mình, không năm nào là không cúng ông Táo tại cung Khôn Ninh. Trong dân gian, tại nơi thờ ông Táo, người ta thường dán câu đối: “Thượng thiên ngôn hảo sự, hạ giới giáng cát tường” (“Lên trời nói chuyện tốt, xuống trần đem điều lành), hay: “Hảo thoại truyền thượng thiên, hoại thoại đu nhất biên” (Lời đẹp truyền lên trời, lời xấu vứt một bên), và ở nơi hoành phi cũng dán thêm hàng chữ “Nhất gia chi chủ” (Ông chủ của gia đình).
Ngày xưa qui định, việc lễ bái do gia chủ trực tiếp làm, nhưng phải là đàn ông: “Nam bất bái nguyệt, nữ bất tế Táo” (Đàn ông không được bái trăng, đàn bà không được cúng Táo).
Vai trò của Táo Quân quan trọng như thế nên cũng được dân gian suy tôn là Định Phúc Táo Quân (Vua Táo qui định phúc đức cho từng nhà), là Đệ nhất gia chi chủ, vị thần đứng đầu trong hệ thống “Ngũ tự chi thần” mà theo sách “lễ ký” của Nho giáo là gồm: Táo Quân, Môn Thần (Thần Cửa), Hộ Thần (Thần Nhà), Trung Lựu Thần (Thần Đất), Tỉnh Thần (Thần Giếng).
Còn dung mạo Táo Quân thì được thể hiện dưới hình thức một vị quan mặc áo bào đen, mặt đen, đầu đội mũ cánh chuồn đen. Trên những bức tranh thờ, ngoài Táo Quân ra, còn thấy một bên có quỉ dạ xoa cầm chùy, một bên có phán quan bưng ấn.
Ngoài ra, ở Trung Quốc còn có ngày vía Táo Ông (3-8 âm lịch) và ngày vía Táo Bà (24-8 âm lịch). Tuy nhiên vào hai ngày này, chỉ có người Hoa ở duyên hải phía Nam - Trung Quốc tổ chức dâng lễ vật, bày mâm cúng.
Câu chuyện về tục thờ cúng Táo Quân bên Trung Quốc mà chúng ta “nghe” được là như vậy. Ở đây bật ra câu hỏi: thế thì quan niệm cổ truyền của dân tộc Trung Hoa là có mấy ông Táo và mấy bà Táo? Nếu chỉ nhìn bức tranh thờ và hàng chữ “Đệ nhất gia chi chủ” thì chỉ có một ông Táo và cũng không có bà Táo. Có thể quan niệm xưa kia là chỉ có một ông Táo, muộn hơn nhiều sau này mới xuất hiện quan niệm “gia đình” Táo và quan niệm này cũng rất mờ nhạt? Vậy thì điều đáng tin cậy nhất là đúng thực, ông Táo được định hình ở Trung Quốc. Nhưng sự định hình ấy có xuất xứ từ đâu và trên cơ sở nào thì chưa xác định chính xác được, dù rằng cái cội nguồn xa xôi của quá trình chính là tục tôn thờ Lửa. Cũng cần phải nhấn mạnh rằng theo nguyên lý nhân - quả thì không thể “đùng một cái” mà vào thời rất đỗi xa xưa nào đấy, con người ở khắp nơi trên thế giới đều đồng loạt biết cách tạo ra lửa, biết dùng lửa để nấu nướng chuyển sang lối ăn chín và tôn thờ lửa như một vị thần.
Chắc rằng tục thờ cúng ông Táo của dân tộc Trung Hoa đã du nhập vào Việt Nam từ lâu, nhưng cái sức sống mãnh liệt của những tập tục truyền thống có gốc rễ từ thời Hùng Vương và trước đó, vượt qua những vừa ăn cướp vừa tàn phá văn hóa ác liệt của phong kiến phương bắc, mà có tính tàn bạo, triệt để nhất là cuộc xâm lược và đô hộ của nhà Đông Hán và nhà Minh, đã làm cho nó biến dạng đi nhiều, hay nói cách khác là đã đồng hóa nó một cách phù hợp hơn với tâm tư, tình cảm và hoàn cảnh sống của người Việt đương thời.
Ở Việt Nam, dù gọi chung là ông Táo, nhưng quan niệm xưa nay vẫn hiểu là nhà Táo, gồm bộ ba: hai ông Táo và một bà Táo. Trong “Gia Định thành đông chí”, không biết dựa trên cơ sở nào mà Trịnh Hoài Đức giải thích quan niệm bộ ba đó xuất phát từ quẻ Ly với hai hào dương trên, dưới và ở giữa là hào âm , tượng trưng cho hai người đàn ông và một người đàn bà đồng thời cũng có nghĩa chỉ phương Nam, chỉ củi lửa. Bộ ba đó là Táo Quân, Táo Bà và Táo Tướng. Trong đó, Táo Quân và Táo Bà (còn gọi gộp là Phật Táo) cuối mỗi năm phải lên chầu, bẩm báo cho Ngọc Hoàng Thượng Đế, còn Táo Tướng là thần củi lửa lúc nào cũng phải phục vụ thế gian, Vì thế mà ở Nam Bộ - Việt Nam có câu:
Hăm ba Phật Táo về Trời
Thổ Táo ở lại đội nồi suốt năm
Chúng ta không tin vào sự giải thích của Trịnh Hoài Đức vì lẽ nếu có bộ ba “hai ông một bà” thì cũng phải có bộ ba “hai bà một ông” (quẻ khảm, ), thế nhưng chẳng thấy ai đả động đến cả; Hơn nữa, đi yết kiến Ngọc Hoàng đâu phải chuyện đùa, nhất là vào thời phong kiến, mà dắt díu lê thê như các vị tổng thống hay thủ tướng ngày nay mỗi khi có việc đi du ngoại, thì thật là… nguy tai.
Người Việt tiếp thu tất cả những tên gọi khác về ông Táo của người Trung Hoa phiên âm sang, đồng thời vẫn gọi ông Táo bằng những cái tên thuần Việt và dân dã khác như: Ông Đầu Rau, hay Ba Ông Đầu Rau, Ông Núc Bếp, Vua Bếp… Đặc biệt, ông Táo còn được gọi là Táo Công hay gọi tắt là ông Công.
Trong dân dã, người Việt có cách gọi rất hay, vừa tôn kính, vừa thân thiết gần gũi đối với các vị thánh, thần, chẳng hạn như ông Đùng, ông Gióng, ông Táo, ông Địa, ông Công… Ông Địa chính là thần Thổ Địa và ông Công chính là thần Thổ Công. Đến nay vẫn còn lưu truyền câu của dân gian Việt: “Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá”. Vậy Thổ Công là ai? Theo quan niệm người Việt xưa thì Thổ Công là vị thần tại gia, trông coi gia cư, định sự may rủi họa phúc cho mọi gia đình. Nhờ thần Thổ Công mà các hồn ma xác quỉ không dám lánh héo, xâm nhập để quấy nhiễu cuộc sống của gia đình. Từ xa xưa, cùng với truyền thống tôn thờ tổ tiên, người Việt cũng rất thành kính thờ phụng Thổ Công.
Tín ngưỡng thờ Thổ Công của người Việt, dù qua thời gian đã nhuốm màu Đạo Giáo thì những đặc điểm tinh tế có gốc tích bản thổ cũng không bị khỏa lấp đi được.
Thông thường, bàn thờ Thổ Công đặt ngay cạnh bàn thờ tổ tiên (có thể ở gian bên). Những gia đình thuộc dòng thứ, không có bổn phận cúng giỗ, nên trong nhà không có bàn thờ tổ tiên, nhưng vẫn phải có bàn thờ Thổ Công, và có thể đặt ở gian chính giữa nhà.
Bàn thờ Thổ Công nhỏ hơn, giản dị hơn bàn thờ tổ tiên. Trên án hương có mâm nhỏ, ba đài rượu, bài vị, bình hương và đôi nến. Thay cho bài vị hoặc cùng với bài vị có cỗ mũ (đồ mã) 3 chiếc: một mũ đàn bà, màu vàng để giữa, 2 mũ đàn ông, màu đen để hai bên, tượng trưng “hai ông một bà” (có nơi chỉ đặt một chiếc mũ nam và một đôi hia). Mũ nam có cánh chuồn vút lên hai bên. Cỗ mũ được đặt trên chiếc bệ (bằng mã). Kèm theo mỗi mũ là 1 áo và 1 đôi hia. Dưới mỗi mũ để 100 vàng thoi (tất nhiên cũng là hàng mã).
Việc bày sắp bàn thờ Thổ Công như thế là sự biểu hiện quan niệm “bộ ba” đã khắc rất sâu vào tâm hồn người Việt xưa, thông qua việc thờ cúng Thổ Công. Đúng như vậy thật, bàn thờ Thổ Công không chỉ thờ một vị thần mà 3 vị thần cùng lúc là: Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ, trong đó:
- Thổ Công, đứng đầu, đồng thời trông coi việc bếp núc.
- Thổ Địa trông coi việc trong nhà (nội gia).
- Thổ Kỳ trong nom việc chợ búa cho phụ nữ, hoặc việc sinh sản các vật ở vườn đất.
Người Việt xưa cúng Thổ Công quanh năm, vào những ngày giỗ, tết, sóc, vọng. Tùy theo gia chủ mà có thể cúng chay hay cúng mặn. Trong những ngày mồng một, rằm (âm lịch), nhiều gia đình cúng chay, đồ cúng gồm giấy vàng bạc, trầu, nước, hoa quả. Cũng có gia đình cúng mặn. Cúng mặn, ngoài đồ lễ cúng chay, còn có xôi gà, có khi là cả một mâm cỗ, và phải có rượu. Trong mọi trường hợp, làm lễ cúng cáo gia tiên bao giờ cũng cúng Thổ Công và khấn cầu sự phù hộ của Thổ Công, và khi cúng phải khấn đủ thần linh trong bài vị. Văn khấn Thổ Công được chép ra dưới đây dùng quanh năm, chỉ thay đổi ngày, tháng cho phù hợp:
 “Nước Đại Việt, năm …… tháng …… ngày ……
Tín chủ là …… toàn gia cư trú tại xã …… huyện …… tỉnh ……, trăm bái
Kính cẩn dâng lên rượu, nước, bạc vàng, đèn hương, hoa quả, cỗ bàn phẩm vật cùng mọi đồ lễ.
Cùng mời:
Bản gia Thổ Công, tại vị ở trước
Thổ Địa tại vị ở trước
Thổ Kỳ tại vị ở trước
Giáng lâm chứng giám
Cầu xin phù hộ chủ từ già đến trẻ hạnh phúc, bình an, không bệnh tật.
                                                                           Thượng hưởng”
Tuy nhiên, lễ cúng Thổ Công quan trọng nhất trong năm là vào ngày 23 tháng Chạp, gọi là Tết ông Công. Lễ này thường được tổ chức vào buổi trưa, nhưng cũng có nhiều nơi thực hiện vào buổi tối. Sau khi lễ xong thì hóa vàng, hóa luôn cả cỗ mũ, áo, hia, bài vị của năm cũ (đốt mã), thay bằng đồ mới để thờ cho đến Tết năm sau. Ở làng quê Bắc Bộ, gia chủ còn mua con cá chép còn sống, thả trong chậu nước để tặng ông Công. Cá này sẽ được phóng sinh xuống ao, chuôm hoặc sông, hồ để nó (vượt Vũ Môn) hóa rồng cho ông Công cưỡi lên chầu Trời. Ở Trung Bộ, ông Công lên Trời bằng cách cưỡi ngựa với đầy đủ yên cương (đồ mã). Ở Nam Bộ, ông Công được dâng cặp giò, tức cặp hia - mã, ngoài ra còn có cặp cây mía đặt hai bên trang thờ để ông Công chống khi đi đường, gọi là “gậy ông Công”
Có thể thấy “vai trò, chức năng” của thần Thổ Công theo quan niệm người Việt xưa dù có những nét dị biệt rõ ràng, nhưng cũng có nhiều nét tương đồng sâu sắc với “vai trò, chức năng” của Thần Táo Quân theo quan niệm người Hoa. Điều này đưa chúng ta đến cảm tưởng rằng hai vị này có chung một “huyết thống”, đều “sinh thành” từ ông Núc Bếp và lấy ông Núc Bếp làm “thần tượng”. Tuy nhiên, hai ông này đã đi theo hai hướng khác nhau, tồn tại trong những điều kiện, hoàn cảnh xã hội khác nhau để rồi một ông hóa thành Thổ Công (của người Việt), một ông hóa thành Táo Quân (của người Hoa). Thế rồi, khi Táo Quân Trung Hoa xuất hiện ở Việt Nam (trong thời kỳ lan tỏa dân cư mà hướng chủ yếu, nổi trội là từ Bắc xuống Nam, do nhiều nguyên nhân khác nhau), hai ông, Thổ Công Việt Nam và Táo Quân Trung Quốc, do có sẵn tương đồng, đã hòa hợp với nhau mà thành Táo Công, một nhân thần “tuy hai mà một”: nói chính xác hơn, có lẽ phải thế này: Ông Táo Việt gặp ông Táo Hoa, hóa thành Táo Việt - Hoa. Trong bài vị trên bàn thờ Thổ Công của gia đình người Việt vẫn thường ghi:
                           “Bản gia đông trùng tư mệnh Táo Phủ thần quân
                           Bản gia Thổ Địa long mạch tôn thần
                           Bản gia Ngũ phương ngũ thổ phúc đức chính thần”
Có nơi chỉ viết gọn là “Định phúc Táo Quân” (Vua Táo qui định phúc đức trong nhà)
Tuy nhiên sự hòa hợp đó có thể là chưa đủ “mãnh liệt” và chưa đủ thời gian để khỏa lấp những dị biệt từng có trong quá khứ cũng như mới phát sinh sau này. Trong thực tiễn, nơi này nơi khác, lúc này lúc khác, vẫn xuất hiện dị biệt, nghĩa là dù đã “hai trong một” nhưng nhiều nhà lại thờ cả Thổ Công lẫn Táo Quân, trong khi Thổ Công được cúng quảy quanh năm vào những ngày giỗ chạp, sóc vọng thì Táo Quân chỉ được nhắc đến 2 lần trong dịp Tết (lễ cúng đưa tiễn chầu Trời và đón rước về nhà). Rất có thể ông Táo Việt (Thổ Công) ngày xưa chưa phải về chầu Trời vào mỗi dịp cuối năm. Sau này mới phải gánh vác “nhiệm vụ thiêng liêng” đó là do ông Táo Tàu “san sẻ” cho. Vậy có thể hiểu khi Táo Công là Táo Quân thì vị thần này có vai trò là “Đệ nhất gia chi chủ” và hàng năm phải lên chầu Trời để bẩm báo; khi Táo Công là Thổ Công thì chỉ là vị thần trông coi bếp núc, bình đẳng với hai vị thần kia là Thổ Địa và Thổ Kỳ (bên Trung Quốc có tới năm vị thần tại gia cơ!); hoặc cũng có thể hiểu Thổ Công là tên chung của 3 vị thần: Táo Quân, Thổ Địa, Thổ Kỳ?
Tại Nam Bộ, khu vực mới khai khẩn sau này với sự có mặt hầu như ngay từ buối đầu đông đảo người Hoa, đã là nơi giao lưu văn hóa truyền thống Việt - Hoa sôi nổi nhất thời cận đại trên lãnh thổ Việt Nam. Do đó, sự hòa hợp “hai trong một” cũng có vẻ “thành công” hơn cả, đồng thời sự dị biệt “tuy một mà hai” cũng biểu hiện rõ ràng hơn cả. Ngày nay, ở Nam Bộ, hình như tiếng tăm của Thổ Công đã phần nào nhạt nhòa và việc thờ cúng Thổ Công trong nhiều gia đình dân cư (nhất là ở thành phố) cũng có phần bị sao lãng. Thay vào đó nhiều nhà thờ cúng ông Táo riêng và Thổ Địa, Thần Tài riêng.
Bàn thờ Táo Quân được định vị khác nhau, tùy địa phương, Có nơi đặt bệ thờ Táo Quân ngay trên khuôn bếp. Trên tường bếp treo bức tranh chân dung Táo Quân, mặt đen xì, áo mũ chỉnh tề như quan triều đình phong kiến xưa. Có nơi, như ở Hà Tiên, không thờ tại bếp, cũng không kê kề bên bàn thờ tổ tiên mà ở vách giữa phía sau nhà. Ở chỗ này, người ta không đặt bệ thờ mà chỉ treo tấm ván hình chữ nhật, dài 1,5m đến 2m, rộng 0m5 đến 0,6m. Tấm ván này đóng vai trò như một bàn thờ, bàn thờ treo. Lễ vật thường là hương, hoa, quả, trầu, rượu, đĩa xôi, con gà hay miếng thịt heo.
Hầu hết cư dân khu vực Nam Bộ đều thờ cúng chung Ông Địa - Thần Tài. Ông Địa chính là Thổ Địa, vị thần trông coi nhà cửa đất đai mà chúng ta đã biết. Thần Tài được xem như vị thần đem tài, lộc đến cho gia đình, phù hộ cho gia chủ làm ăn phát đạt. Thần tài mới xuất hiện gần đây, có thể vào khoảng đầu thế kỷ XX. Có người nói rằng tục thờ Thần Tài được du nhập từ Trung Quốc. Điều này có lẽ không hẳn đúng. Nói cách khác, nếu có đúng thì may ra chỉ đúng một nửa.
Đáng chú ý là bàn thờ Ông Địa - Thần Tài không bao giờ được đặt ở nơi khang trang, cao thoáng (và cũng không cần to, cầu kỳ) như bàn thờ tổ tiên hay bàn thờ Thổ Công mà phải đặt ở dưới đất, ở những nơi xó xỉnh, hàng hiên, góc nhà (nhưng phải hướng ra phía mặt tiền nhà). Nguyên nhân phải đặt dưới đất (trên nền nhà) là vì đất là nơi trú ngụ của ông Địa (có lẽ vì quan niệm này mà xuất hiện bàn thờ ông Thiên, được đặt trước sân, không có sân thì trước hàng hiên, nhưng phải ở trên cao, thường trên đầu trụ gỗ hoặc trụ xây - có ông Địa thì phải có ông Thiên!). Nguyên nhân thứ hai là do truyền thuyết sau đây:
Ngày xưa, có một người lái buôn tên là Âu Minh, khi đi qua hồ Thanh Thảo được Thủy Thần cho một nàng hầu là Như Nguyệt để đem về nhà. Từ đó Âu Minh làm ăn phát đạt, giàu to. Một hôm (đó là ngày Tết), Âu Minh đánh Như Nguyệt. Nàng sợ hãi chui trốn vào đống rác rồi biến mất. Từ đó, Âu Minh làm ăn sa sút, chẳng mấy chốc mà trở nên xác xơ, nghèo kiết. Người xưa đồn Như Nguyệt là Thần Tài và lập bàn thờ. Từ đó mà cũng có tục kiêng hốt rác trong 3 ngày Tết (nếu có chăng là quét sơ rồi dồn rác tạm vào nơi xó xỉnh, góc nhà, chỗ khuất).
Những người tin tưởng và nhất là những gia đình buôn bán thì không chỉ cúng Thổ Địa - Thần Tài vào những ngày giỗ Tết, sóc vọng mà cúng quanh năm, thậm chí là trước mỗi “độ” làm ăn, mỗi cuộc buôn bán. Trong các dịp giỗ, tết, sóc vọng, thường người ta cúng mặn, có lúc bày cả một mâm cỗ. Trong những ngày thường, việc cúng đơn giản hơn: thắp hương, dâng trầu, nước và có thể thêm một đĩa trái cây. Ở thành phố, vào sáng sớm, khi mở tiệm, hàng, quán bắt đầu buôn bán, người ta thắp hương cho Thổ Địa - Thần Tài, nhiều khi lễ vật chỉ đơn giản là điếu thuốc đã mồi sẵn và ly cà phê đen cho 2 ông dùng chung để 2 ông vui vẻ phù hộ cho mua may, bán đắt, làm ăn suông sẻ.
Điều gây cho chúng ta sự chú ý đặc biệt là trong bài vị Thần Tài có viết:
“Ngũ phương ngũ thổ long thần
Tiền hậu địa chủ tài thần”
Nội dung này làm chúng ta nhớ đến một câu trong bài vị Thổ Công:
                           “Ngũ phương ngũ thổ phúc đức chính thần”
Câu này là nói về Thổ Kỳ. Mà Thổ Kỳ là vị thần, theo quan niệm người Việt xưa, có vai trò trông nom việc chợ búa cho phụ nữ, sự sinh sản của các vật ở vườn tược, đất đai gia chủ. Nói cách khác, thì Thổ Kỳ chính là thần coi sóc việc buôn bán, tăng gia sản xuất của gia chủ, quyết định đến tài, lộc của gia đình. Vậy cái gốc bản thổ của Thần Tài chính là thần Thổ Kỳ. Có thể nói Thần Tài là Thổ Kỳ của người Việt đã pha sắc màu Trung Hoa và tập tục thờ cúng Ông Địa - Thần Tài là sự biến thái từ tập tục thờ cúng Thổ Công mà ra.
Sự “lũng đoạn” liên tục của văn hóa truyền thống Trung Hoa đã làm cho nhiều phong tục cổ truyền của dân tộc Việt bị mờ dần đi nét “thuần Việt” của chúng. Song những vết tích còn lưu lại được đến ngày nay trong hệ thống phong tục cổ truyền ấy, cũng như trong khảo cổ nói chung đã mách bảo rằng về cơ bản là chúng có tính truyền thống bản địa và cái cốt lõi chung nhất của chúng có thể đã ra đời ngay trên chính mảnh đất Việt Nam này, do chính người Việt cổ sáng tạo ra. Khi Đạo giáo và Phật giáo (cần phân biệt Đạo gia là triết học duy vật còn Đạo giáo và Phật giáo là triết lý tín ngưỡng) xâm nhập vào nước Việt cổ đại thì ở đó phong tục cổ truyền đã tồn tại vững vàng. Để xâm nhập được vào tâm hồn của dân cư Việt cổ thì hai đạo ấy hay bất cứ đạo nào khác chỉ thuyết giảng không thôi là chưa đủ, mà còn phải “nhập gia thì tùy tục”, phải sáng tạo ra những câu chuyện có liên quan đến phong tục tập quán cổ truyền theo quan niệm của họ, đề cao tín ngưỡng của họ để “tranh thủ lòng người”. Nhiều cổ tích, sự tích, huyền thoại về phong tục tập quán của các dân tộc mang đậm tín ngưỡng của đạo này hay đạo khác là vì thế.
Chúng ta tin rằng tập tục thờ cúng Thổ Công là một tập tục đã có từ rất lâu đời của dân tộc Việt. Với sự đề cao đất đai (Thổ Địa) và sự chăn nuôi, trồng trọt, mua bán (Thổ Kỳ) thì tập tục ấy phải xuất hiện vào thời cư dân Việt cổ an cư lạc nghiệp, lấy sản xuất nông nghiệp làm phương thức sống chủ yếu, đồng thời sự mua bán (hàng hóa), nghĩa là sự có mặt của đồng tiền (dù có thể với hình thức còn sơ khai) đã trở nên phổ biến trong xã hội. Thời ấy có thể là khoảng giữa thời đại Hùng Vương nếu trên trống đồng Ngọc Lũ, vòng tròn có chấm giữa chắc chắn là hình tượng biểu trưng cho đồng tiền. Tập tục này nếu đã có từ khi đó thì về hình thức chắc là khác xa so với ngày nay.
Tập tục cổ truyền là sáng tạo của mỗi dân tộc. Đó là thành quả của quá trình xuất hiện “bản gốc”, kế tục, điều chỉnh, sáng tạo thêm cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh xã hội, theo nhận thức của thời đại mới, có sự học hỏi, giao hòa lẫn nhau với tập tục cổ truyền của các dân tộc khác, trước hết là các dân tộc láng giềng. Tập tục cổ truyền cũng là một sự vật - hiện tượng nên nó cũng tuân theo những nguyên lý cơ bản của Tự nhiên - xã hội, vì vậy mà nhìn ở góc độ này thì thấy nó là kết quả của tập tục cổ truyền thời trước đó, nhìn ở góc độ kia thì thấy nó vẫn chính là tập tục cổ xưa, trải qua cuộc xoay vần “ba chìm bảy nổi chín lênh đênh” để bảo tồn. Mặt khác, có thể thấy tập tục cổ truyền là nét đẹp văn hóa, là “báu vật” tinh thần của một dân tộc, là nơi gửi gắm những tâm tư tình cảm được cho là cao đẹp nhất của con người trong quá khứ, sự tồn tại của nó không ngoài mục đích nào khác là phục vụ cho đời sống con người, phụng sự cho sự sống còn xã hội, nghĩa là cho Đức Huyền Diệu. Chính vì vậy mà còn thấy ở tập tục cổ truyền sự kết tinh tất yếu giữa những sự vật - hiện tượng hiện hữu một cách khách quan, tự nhiên trong thiên nhiên - xã hội và trí tuệ mang tính chủ quan, nhân đạo của con người trên bước đường nhận thức lại lịch sử.
Đấu tranh sinh tồn đã là động lực thúc đẩy con người phải cố gắng mưu sinh và tìm kiếm mọi khả năng để đảm bảo cuộc sống, ổn định đời sống, và nâng cao mức sống. Quá trình đó tất yếu sẽ làm xuất hiện những phương tiện tiện lợi hơn trong lao động và sinh hoạt, những phương cách sống phù hợp và ưu việt hơn. Khi phương tiện, công cụ phục vụ cuộc sống cùng với những thao tác và cách sống của con người hòa hợp với sự hiện hữu của các phương tiện, dụng cụ ấy đã trở nên tương đối ổn định và (nhờ thế mà) tồn tại lâu dài trong thời gian thì nó sẽ chuyển hóa thành tập quán. Tương tự như vậy, đấu tranh sinh tồn cũng tác động đến con người có ý thức để làm hình thành nên cái gọi là “tập quán tinh thần”, hay gọi như thường gọi là “phong tục”. Qua thời gian, quan niệm của con người về thực tại ngày càng sâu rộng hơn, khác xưa hơn, trình độ sống chuyển hóa dần lên mức cao hơn (hiện đại hơn). Quá trình đó làm cho phong tục tập quán được chắt lọc, được bổ sung, được điều chỉnh để trở thành “thuần phong mỹ tục” theo quan niệm của từng thời đại hậu thế (có những tập tục trước đây là hủ tục, bị loại bỏ, cấm đoán thì bây giờ lại coi là mỹ tục và được phục hồi. Tương tự, có những tập tục hôm nay là mỹ tục thì biết đâu chừng ngày mai sẽ là hủ tục. Nói chung, một phong tục tập quán còn tồn tại một khi nó còn cần thiết cho Đại Chúng và vì nó tồn tại theo yêu cầu của Đại Chúng nên cũng có thể gọi nó là thuần phong mỹ tục của Đại Chúng đó và thời đại đó).
Một lối sống nếp nghĩ ra đời là do yêu cầu của đời sống và nhận thức. Khi lối sống, nếp nghĩ ấy đã thành “thói quen” thì cũng là lúc nó chuyển hóa thành một phong tục, tập quán. Lâu dần, phong tục tập quán sẽ mất đi tính thực dụng “sát sườn” của nó, xa rời cái gốc thực tiễn của nó để được khoác lên bộ cánh “cổ truyền” và đến một giai đoạn nào đó, hậu thế sẽ không thể hiểu được vì sao nó lại có mặt ở trên đời mà hình như không đem lại một tiện ích thiết thực nào cả. Cần phải giải thích! Thế là, tương tự như đối với các vấn đề, các sự kiện thuộc về lịch sử khác, các câu chuyện kể về phong tục tập quán ra đời với những tâm tư, tình cảm, ước vọng… của đương thời được gửi gắm vào đó, để rồi lan tỏa, lưu truyền về sau thành những truyền thuyết, cổ tích, thần thoại…
Ở Việt Nam, sự tích Thổ Công là thế này:
Xưa, có vợ chồng Trọng Cao, Thị Nhi, không có con, buồn phiền thường cãi nhau. Một hôm, Trọng Cao giận quá, đánh vợ. Thị Nhi bỏ đi, gặp Phạm Lang, liền thành vợ chồng. Trọng Cao hối hận, đi tìm vợ, hết tiền ăn đường, phải hành khất độ nhật. Một lần Trọng Cao vào nhà kia xin ăn. Bà chủ mang cơm cho, nhận ra người chồng cũ. Trọng Cao cũng nhận ra bà chủ nhà chính là Thị Nhi. Thị Nhi hậu đãi Trọng Cao. Chợt chồng mới về. Thị Nhi vội bảo Trọng Cao trốn tạm vào đống rơm. Phạm Lang đi vắng về, không nghi ngờ gì, nhớ phải có tro bón ruộng, bèn ra đốt cây rơm. Trọng Cao bị thiêu chết. Xót xa nghĩa cũ tình xưa, Thị Nhi nhảy vào lửa chết theo. Phạm Lang xông vào cứu, cũng bị lửa thiêu chết nốt. Ngọc Hoàng thương cảm, cho ba người hóa thần, đoàn tụ bên nhau trong một gia đình: Phạm Lang thành Thổ Công, trông coi việc bếp núc; Trọng Cao thành Thổ Địa, trông coi việc trong nhà; Thị Nhi thành Thổ Kỳ, trông coi việc chợ búa và rau màu ở vườn nhà.
Trong sự tích trên, không thấy nói đến vì sao Thổ Công (hay cũng là Táo Quân) lại phải lên chầu Trời vào ngày 23 tháng Chạp hàng năm. Phải chăng, sự tích nguyên thủy là như thế thôi (với nội dung còn giản lược hơn nữa) và tình tiết lên chầu Trời của Thổ Công chỉ được thêm vào trong thời đại hình thái xã hội là liên minh các bộ lạc đã phân quyền minh chủ - chư hầu, hay còn gọi là chế độ phong kiến phân quyền?
Mặt khác, rất rõ là “khẩu khí” của sự tích này chỉ có thể có ở chế độ phụ quyền nhưng với sự tồn tại “hai ông một bà” trong một gia đình thì lại như mách bảo về chế độ mẫu quyền. Hơn nữa, hiện tượng người hóa thần chỉ có thể có được khi đã tồn tại Đạo giáo. Phải chăng, tập tục thờ cúng Thổ Công là sự kế thừa một tập tục khác có sớm hơn, vào thời mà chế độ gia đình vẫn trong giai đoạn mẫu quyền, và sự tích về Thổ Công là sự vay mượn cái cốt của một sự tích xa xưa hơn với sự can thiệp, chế tác thêm của Đạo Giáo? Câu trả lời của chúng ta là khẳng định. Tập tục thờ cúng tiền thân của tập tục thờ cúng Thổ Công là tập tục thờ cúng Ông Đầu Rau và sự tích tiền thân của sự tích Thổ Công là sự tích Ông Đầu Rau (hay ông Núc Bếp).
Ông Đầu Rau là 3 hòn đất nung dùng để kê nồi lên nấu nướng. Người miền Trung gọi là Ông Núc, người miền Bắc gọi hòn đất nung ở giữa là “Đầu rau cái”, 2 hòn hai bên là “Đầu rau đực”, gọi chung là (Ông) Đầu Rau. Ngoài ra, bên cạnh cái bếp còn có một hòn đất hình quả cân, được gọi là Thằng Lốc (ngày xưa ở nông thôn chưa có diêm nên thường vào buổi chiều, người ta phải đổ một mớ trấu bên cạnh bếp, đè hòn đất này lên đó để trấu cháy âm ỉ đến sáng; lúc cần thì thổi lên thành lửa để dùng).
Nhưng vì sao lại thờ cúng cái bếp? Cái bếp là vật dụng vô cùng quan trọng của con người tiền sử, nhất là đối với một gia đình trong thời đại định cư lấy ngũ cốc, gia súc làm nguồn sống chủ yếu và đã chuyển sang cách ăn chín. Để nấu chín lúa gạo thì trước hết phải có cái đựng. Có thể lúc đầu người ta đã dùng đến ống chặt ra từ cây măng, vầu… (họ tre, rỗng bên trong) để nấu nướng, sau mới xuất hiện nồi niêu (bằng đất nung), tiện dụng hơn nhiều. Sự xuất hiện nồi niêu sơ khai (nặn bằng đất) đòi hỏi phải có (ít nhất) là 3 đầu rau và phải chăng việc này đã khai mở ra một thời đại mới: thời đại đồ gốm?
Ngày nay, thật khó hình dung trong nhà lại thiếu cái bếp huống gì xưa kia, khi cái bếp có vai trò lớn lao, chi phối hầu hết sinh hoạt của một gia đình cổ xưa. Ngoài công dụng nấu nướng, cái bếp còn là nguồn sáng của gia đình vào ban đêm, là nguồn sưởi ấm vào mùa đông lạnh giá, là nơi giữ lửa cho ngày hôm sau, là riềng mối của sự quây quần, đoàn tụ… Không có cái bếp, cách sống đồng sức, đồng lòng “góp gạo thổi cơm chung” kiểu gia đình sẽ trở nên lỏng lẻo, hay có thể nói rằng: tiến trình cuộc sống của loài người làm xuất hiện gia đình (đơn vị nhỏ nhất làm nên xã hội), lối sống gia đình sẽ dẫn đến việc tạo ra cái bếp, và cái bếp đến lượt nó, tỏa ra sự ấm áp cho tình thương yêu thêm nồng nàn, cho sự gắn bó keo sơn thêm bền chặt. Thật là khốn khổ và bất hạnh cho một gia đình khi cái bếp bỗng trở nên tắt lạnh…
Cái bếp thời cổ xưa tối quan trọng như thế nên nó cũng trở nên thiêng liêng trong tâm thức con người và người ta thờ cúng nó cũng chính là khẩn cầu trời - đất phù hộ cho gia đình được an ổn, sung túc. Biểu hiện của Trời ở đây chính là lửa, đại diện cho Đất ở đây cũng chính là đầu rau. Không có sự kết hợp Trời - Đất thì sẽ không có nồi thức ăn được nấu chín, sẽ không có ánh sáng để sinh hoạt ban đêm và cũng sẽ không có hơi ấm để sưởi lúc lạnh giá.
Trong “Mùa xuân và phong tục Việt nam”, tác giả Trần Quốc Vượng (và…) có nhận định thế này:
“Về triết lý, cái bộ ba, một thần linh tính nữ và hai thần linh tính nam trong toàn miền Nam Á là biểu tượng của tổ tiên, dù là tổ tiên tô tem giáo, anh hùng văn hóa, tổ tiên huyền thoại hay tổ tiên thực sự theo quan hệ quyến thuộc của ngày sau. Dân tộc học cho chúng ra biết ở người Khmú (Tây Bắc), ba đầu bếp (đầu rau) được gọi là “tại gia”, nghĩa là ông bà, tổ tiên. Dù sau này đã có kiềng sắt thì người Mường vẫn để một hòn đá cạnh kiềng làm biểu tượng Ông Núc tổ tiên. Và chủ nhân văn hóa Hòa Bình trước đây một vạn năm rõ ràng làm ba đầu rau bằng ba tảng đá cuội. Các di tích đầu thời đại sắt Việt Nam (2.300 năm cách ngày nay) như Đường Mây (Hà Nội), Nội Cẩm (Bắc Ninh) đã tìm thấy đầu rau bếp bằng đất nung không khác gì ngày nay. Tục thờ đá chuyển hóa thành tục thờ ông Táo rõ ràng là có sự can thiệp của Đạo Giáo”.
Có khá nhiều câu chuyện về sự tích Ông Đầu Rau. Tuy nhiên chúng na ná nhau. Có thể chúng là “hậu duệ” của một câu chuyện nguyên thủy đã có từ thời còn chế độ mẫu hệ - mẫu quyền. Nếu lược bỏ, những “hệ lụy” của thời đại sau đó thì câu chuyện nguyên thủy có thể là như sau:
Xưa kia, có hai vợ chồng nhà nọ. Chồng thường đi làm ở xa, thỉnh thoảng mới mang lương thực thực phẩm làm được về nhà. Một chuyến, ông đi biệt khá lâu, không tin tức gì cả. Người vợ chờ mãi vẫn bặt vô tín. Sau đó người vợ mới nối duyên với một người đàn ông khác chuyên nghề săn bắt và làm ruộng. Người đó có vợ chết sớm, nuôi một đứa con tên là Lốc. Một hôm, trong khi người chồng mới cùng đứa con đi săn vắng thì tự nhiên người chồng cũ trở về. Hóa ra là ông bị lạc trong rừng núi hết sức khổ ải. Người vợ dọn cơm cho ăn. Khi chồng mới sắp về, người phụ nữ đưa chồng cũ ra ngoài đống rơm, tạm trốn vào đó. Người chồng mới cùng đứa con tên Lốc trở về mang theo một con thú săn được và hí hửng làm thịt. Trong khi người vợ ra vườn hái rau thì Lốc lấy rơm để thui con thú, không may lửa bén cháy cả đống rơm làm chết người đàn ông đang ngủ trong đó. Người vợ từ vườn chạy đến, thấy thế, đau đớn quá, nhảy vào đống lửa chết theo. Người chồng mới nhảy vào cứu, cũng bị lửa thiêu chết. Thằng Lốc, quá hối hận cũng nhảy luôn vào chịu chết nốt. Ông Trời thấy tình cảnh đáng thương bèn hóa 3 người thành ba ông đầu rau để đoàn tụ mãi mãi. Còn thằng Lốc được hóa thành cục đè không cho trấu bùng cháy, được đặt ở bên cạnh.
Có thể phỏng đoán rằng sự tích Ông Đầu Rau dạng nguyên thủy đã xuất hiện ít ra là vào đầu thời đại Hùng Vương và tập tục thờ cúng Ông Đầu Rau ít ra là đã xuất hiện vào thời Âu - Lạc (Âu Cơ - Lạc Long Quân). Trong cổ ngữ Việt Mường, tiếng “táo” có nghĩa gốc là “tá”, dùng để chỉ các vị thần thuộc dòng lửa như Tá Cần, Tá Cái… Có thể thấy “tá” đồng nghĩa với “hỏa” (lửa) trong thành ngữ “Tá hỏa tam tinh” mà ngày nay người Việt vẫn còn dùng, hay có thể còn có nghĩa là “cháy”.
Vậy tập tục thờ Thổ Công có xuất xứ từ tập tục thờ Ông Đầu Rau. Còn tập tục thờ Ông Đầu Rau lại từ tập tục thờ Ông Tá mà ra. Rất có thể Ông Đầu Rau ở Việt Nam và Ông Táo ở Trung Quốc là hai anh em “cùng huyết thống”, cùng là hậu duệ trực tiếp của Ông Táo, đều có nghĩa là Ông Núc Bếp. Sau này, khi “gặp nhau” trên đất Việt Nam, Táo Quân và Thổ Công đã hòa hợp với nhau thành Ông Táo Việt gọi là Táo Công và do chưa đủ thời gian chuyển hóa nên “trong” Ông Táo này, ngày nay vẫn còn thấy những khiên cưỡng, mâu thuẫn nội tại?
Thế còn Ông Tá? Theo nghĩa ngôn từ thì rõ ràng Ông Tá là Ông Lửa - gọi một cách linh hóa là Thần Lửa.
Từ xa xưa tối cổ, lửa đã trở thành bạn đồng hành không thể thiếu được của bầy đàn người nguyên thủy trên bước đường tiến hóa lên lối sống quần cư xã hội, lấy trồng trọt chăn nuôi làm phương kế sinh nhai chủ yếu. Không có lửa, chắc chắn sẽ không có đồ gốm, đồ đồng cũng như cả nền văn minh ngày nay. Hơn thế nữa, nếu không có lửa, thì thậm chí là nền nông nghiệp lúa nước cũng không thể có nốt. Có thể nói lửa đóng vai trò như một động lực mạnh mẽ thúc đẩy loài người tiến nhanh lên văn minh theo lý trí mà cũng là định mệnh của họ.
Khảo cổ học cho thấy thời cổ đại, hầu hết các tộc người trên thế giới đều có tục thờ Lửa. Theo Kinh Vêda, 4.000 năm TCN, những tù trưởng Lạtma ở phía bắc Tây Tạng đã thờ Thần Lửa mà họ gọi là Agni. Đối với người cổ đại, những dịp dâng cúng Thần Lửa có tính lễ hội vừa thiêng liêng, vừa cuồng nhiệt, họ nhảy múa thích thú bên đống lửa, thực hiện nhiều trò “vui chơi” với lửa như đi trên than đang cháy, nhảy qua lửa, rước đuốc… mà ngày nay còn thấy.
Ngày nay, phần lớn các tộc người ở Việt Nam vẫn còn giữ được tục lệ thờ Thần Lửa của thời sơ khai ấy. Chẳng hạn tộc người Dao ở Hà Giang mở đầu cho ngày Tết âm lịch của mình bằng nghi lễ cúng Thần Lửa. Người ta chuẩn bị đầy đủ đồ cúng tế và thức ăn, một đống củi to trước bàn cúng tế. Sau khi ông chủ lễ (với trang phục màu đỏ), đọc xong bài cúng tế, cầu mong mưa thuận gió hòa, mọi người khỏe mạnh; mời Thần Lửa về cùng vui lễ hội, dùng gióng vầu (hay tre) xin quẻ âm dương xong thì đến phần “tắm lửa”: các chàng trai đi trên than đỏ rực, rồi nhảy, rồi lăn trên than nóng một cách cuồng nhiệt, người đứng xem, nhất là các cô gái cũng rừng rực, say mê.
Người Pà Thẻn ở Tuyên Quang cũng có tục nhảy lửa vào tháng giêng. Dân làng mang gạo thịt và củi đến một bãi đất rộng vào ban đêm và đốt lên ở đó một đống lửa rất to. Thầy cúng vừa gõ nhạc cụ vừa đọc bài cúng xin Thổ Địa cho phép nhảy lửa và mời các ma trên trời xuống nhập vào các thanh niên đang ngồi chờ. Các thanh niên này lần lượt rung lên, người lắc lư, đi vào lửa như bị ma nhập. Họ đi trên than hồng, bốc than và tro nóng xoa lên mặt mà không bị bỏng…
Các tộc người ở Tây Nguyên cũng rất tôn sùng Thần Lửa. Người Ca Dong xem Thần Lửa như người chăm lo cho sự sống gia đình mình. Người Êđê và Mnông xem lửa là vị thần may mắn, luôn bảo vệ con người. Trong ngày lễ hội, họ lấy ngọn lửa được cho là thiêng liêng từ bàn thờ nhà chung (nhà rông), già làng đứng ra khấn vái xin được phép đốt, người châm lửa phải là người tốt, có uy tín trong dân làng. Ngọn lửa thiêng được thắp cháy suốt mùa lễ hội. Còn người Xêđăng thì thường tổ chức lễ lấy lửa trùng với lễ máng nước vào mùa xuân. Họ dùng nước sạch hoặc cát sạch để dập tắt tất cả lửa cũ trong các bếp và lấy lửa thiêng từ nhà rông về. Chủ nhà lúc đó sẽ hiến sinh một con gà trống và khấn: “Xin Lửa hãy ở yên trong bếp… hãy nhận và ăn hết những gì Người thích tại đây… đừng ăn ở nơi khác trong nhà hay ngoài kho…”. Người Kơho cũng có lễ tục cúng Thần Lửa vào đầu năm mới. Sau lời khấn của già làng, họ cọ hai thanh tre vào nhau để tạo ra lửa rồi chia lửa cho các nhà, ngọn lửa thiêng ấy được giữ gìn suốt năm.
Dân tộc Việt (người Kinh) đã chuyển hóa tục thờ Thần Lửa thành tục thờ Thổ Công - Ông Táo. Ngày xưa, từ mồng một Tết trở đi, mọi người dùng lửa mới và giữ lửa cẩn thận, không cho ai xin lửa trong suốt tháng Giêng. Ngoài ra có nhiều qui định nữa xung quanh việc thờ Ông Táo như không được bước qua bếp lửa, không được gõ đũa lên Ông Táo, không được nói những chuyện bậy bạ bên Ông Táo…
***
Coi như chúng ta đã vừa làm xong lễ cúng đưa Táo Công về Trời. Bây giờ phải quay ngay sang thực hiện cho xong công việc lo Tết còn dở dang. Vào những ngày này, nhà nào cũng bề bộn công chuyện, trăm thứ bà dằn phải lo toan. Trước mắt gia chủ ngày xưa còn nào là Lễ tiễn ông bà ông vải, biếu thầy lang, đi Tết (con nợ và chủ nợ), gửi Tết, biếu Tết, rồi treo câu đối Tết, sắm tranh Tết… Ôi thôi, kể hết ra cũng đủ bở hơi tai huống chi là làm! Chỉ xin kể hai công việc làm chúng ta chú ý hơn cả là gói bánh - giã giò và trồng cây nêu.
Tết xưa, thiếu gì thì thiếu chứ không thể thiếu được:
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh.
(Ngày nay vẫn thế, chỉ có “tràng pháo” là im hơi bặt tiếng. Người ta cho rằng đó là món ăn tinh thần gây lãng phí, một trò chơi gây nhiều nguy hiểm. Không quản lý được thì cứ cấm tiệt là tiện nhất! Dù sao, kể cũng tiếc, nhất là vào đêm Giao thừa và sáng mồng một Tết!).
Bắt đầu từ 26, 27 tháng Chạp, các nhà đã rục rịch nấu bánh chưng (hoặc bánh tét trong Nam), bánh dày. Đi trên đường làng, ngõ xóm vào những ngày này sẽ thấy người này người kia mang lá dong, lá chuối ra ao, chuôm rửa và lau lá; sẽ nghe tiếng giã giò đan xen nhau, văng vẳng từ một số sân nhà.
Có lẽ từ đời nào đến giờ, bánh chưng, bánh dày và giò lụa chỉ xuất hiện trong Tết của dân tộc Việt chứ không thấy ở bất cứ Tết âm lịch của bất cứ nước nào khác. Điều đặc biệt là bánh chưng, bánh dày chắc chắn đã có từ rất lâu rồi và có cả một sự tích về chúng.
Trước hết, về giò, chúng ta trích lời cụ Líu, nghệ nhân giã giò có 65 năm tuổi nghề (trong “Cảnh sắc và hương vị đất nước” của nhà văn Nguyễn Tuân):
“… Cái bánh giò sỡ dĩ có hương vị bánh giò vì nó được chân quyện trong mùi thơm lá chuối luộc cho bằng chín tới đấy. Giò lụa thơm đậm vì mùi thịt tươi luộc cộng với mùi thơm chát ngậy của lá chuối tươi luộc chín”.
Và:
“Có phải thịt lợn nào cũng giã được giò lụa đâu. Thịt mà ướp tủ lạnh thì giời mới giã nổi. Nó phải tươi, để tay vào còn ấm, lúc thái ra miếng thịt còn phải như nhảy trên thớt, không cẩn thận thì thái vào ngón tay mình đấy… Đâu lại có cái kiểu nện chày chủng chẳng tiếng đực tiếng cái tiếng mẹ tiếng con như thế. Cái kiểu giã cho hết giờ ấy thật phí cả yến (10 kg) thịt tươi ấm. Ngày xưa, tôi giã giò làm gì có quạt máy, cứ mồ hôi trên mồ hôi dưới, hai tay nện vô hồi kỳ trận, muỗi nhặng đốt mép đốt mặt cũng kệ, cứ giã đều… Giã mạnh quá cũng không cần, nhưng cốt là giã đều và bền sức. Nghe nó đều đều như dây cung bật bông đệm… Này, nghe tiếng giã giò, có thể đoán được mẻ giò lụa là được hoặc là bỏ”.
Hay:
“… Cụ tổ nghề chúng tôi truyền nghề cho, không rõ từ thời vua nào, nhưng đền thờ tổ là phải có đôi chày gỗ mít sơn son thiếp vàng dài hai, ba thước ta… Giã giò mà nhịp chày kép không đặm, đều, tôi nói thật cho ông biết, nó sẽ không khác gì cái thằng đổ bê tông móng cầu chậm chạp lóng ngóng làm ôi xi măng đấy”.
Còn về sự tích bánh chưng, bánh dày là thế này:
Ngày xưa, Hùng Vương đã già, muốn tìm người xứng đáng nhất trong 22 người con để truyền ngôi, bèn gọi tất cả các hoàng tử về bảo: “Cha biết mình đã gần đất xa trời, muốn truyền ngôi. Bây giờ, mỗi con cố kiếm hoặc làm một món ăn lạ để cúng tổ tiên. Ai có món ngon, vừa ý ta thì ta sẽ chọn người đó”.
Nghe vua cha nói vậy, các hoàng tử đều cố gắng cho người đi khắp thiên hạ để tìm tòi thức ngon miếng quí để dâng lên vua cha.
Trong số đó, có hoàng tử thứ 18 tên là Lang Liêu. Liêu thuở nhỏ mồ côi mẹ, quen sống đời dân dã. Chàng chẳng nghĩ ra được món nào đặc sắc để dâng gửi lên Hùng Vương. Chỉ còn 3 ngày nữa là hội thi diễn ra mà Liêu vẫn chưa chuẩn bị được gì.
Đêm ấy, Liêu nằm nghĩ mãi về lễ hội và ngủ quên lúc nào không biết. Một vị nữ thần từ trên trời bay xuống bảo:
- To lớn nhất là trời và đất, quí báu nhất trần gian là gạo. Vậy, hãy làm hai cái bánh bằng gạo nếp. Một bánh là tượng trưng cho đất, hình vuông, có màu xanh của cây cỏ, núi rừng, ở giữa là thịt, đỗ để biểu thị muôn vật. Đem thứ nếp đó đồ lên cho dẻo, giã nhuyễn, rồi nặn thành cái bánh, nấu chín, tượng trưng cho Trời: trắng, tròn, khum khum như vòm trời.
Choàng tỉnh giấc, Liêu quyết định thực hiện điều trong mơ.
Đúng vào lúc mặt trời mọc thì Vua Hùng cùng tùy tùng đến làm lễ gia tiên. Chiêng, trống, cờ, quạt tưng bừng. Bao nhiêu của ngon vật lạ, bao nhiêu món “nem công, chả phượng, tay gấu, gan tê” của các hoàng tử đều được dâng lên. Nhìn cỗ dâng lên vua cha của chàng Liêu, nhiều người chạnh lòng vì sự biểu hiện hết sức quê mùa, đơn sơ của nó.
Ấy vậy mà quá trưa hôm ấy, Hùng Vương phán rằng sẽ truyền ngôi cho hoàng tử thứ 18 (tức chàng Liêu). Vua nói đại ý:
- Đó là những thứ bình thường nhưng hương thơm khác thường, chẳng những ngon mà còn mang ý nghĩa trọng đại: Con tôn thờ cha mẹ như trời - đất. Không những thế, nó còn chứa đầy tình quê hương, ruộng đồng. Và hơn nữa nó rất dễ làm vì chỉ bằng những hạt gạo quê nhà, ai cũng có thể thực hiện được. Phải là người có tài mới làm ra được hai loại bánh đó.
Sau khi vua cha mất, Lang Liêu lên ngôi, hiệu là Tiết Liêu Vương, tức là đời Hùng Vương thứ 7.
Các hoàng tử khác ganh ghét, ác cảm với Lang Liêu. Họ, người nào người nấy làm hàng rào gỗ giữ chặt lấy đất đai của mình, có ý cố thủ, cát cứ, chống lại Tiết Liêu Vương.
Tuy nhiên cũng từ ngày lễ hội dâng vua đó mà thành tục lệ: hàng năm, cứ mỗi độ Tết đến, mọi nhà đều làm hai thứ bánh đó, gọi là bánh chưng, bánh dày để bày lên bàn thờ, cúng gia tiên quốc tổ.
Sự tích bánh chưng, bánh dày là thế. Thật là một câu chuyện hay vì chúng ta có cảm giác như nó vẫn lưu giữ được khá rõ những hiện thực lịch sử. Hình như hơi thở của thời đại quá vãng xa xôi đó vẫn còn phảng phất đâu đây.
Có thể khi bước vào đời Hùng Vương thứ 7, nước Văn Lang đã phải chịu một cuộc phân tranh, huynh đệ tương tàn, xã hội can qua ly loạn. Đó là khoảng thời gian chuyển biến hình thái xã hội từ liên minh các bộ lạc sang liên bang nguyên thủy (thể chế này có thể không hẳn là phong kiến phân quyền và hơi giống với thể chế liên bang ngày nay: thủ lĩnh các bang cũng theo lệ cha truyền con nối, cũng được xác định cương vực lãnh thổ riêng, có quân đội riêng (như địa phương quân) nhưng vẫn thuộc quyền sở hữu chung của nước Văn Lang, nằm trong thể chế ràng buộc chung mà quyền lực tối thượng là Nhà nước Văn Lang, đứng đầu là Hùng Vương)?
Trong sự tích bánh chưng, bánh dày có một chi tiết lạ gây cho chúng ta sự chú ý đặc biệt, đó là có một nữ thần từ trời xuống báo mộng cho Lang Liêu. Hỏi rằng vị nữ thần này chức danh là gì? Dù trong tín ngưỡng nhất thần hay đa thần thì con người cổ đại cũng không để cho vị thần linh nào bị khuyết danh. Có thể nào danh tính của vị nữ thần này đã bị “thất lạc” qua bề dày thời gian và từ đó đến nay đã từng có nhiều người cất công kiếm tìm nhưng chưa ra? Hay đơn giản, trong sự tích ấy, thuở đầu tiên chỉ có việc Lang Liêu mộng thấy bánh chưng, bánh dày, chứ chẳng có sự mách bảo của vị thần linh nào cả và mãi về sau mới có người nào đó thêm vào cho “long trọng”? Nhưng nếu thế thì sao không thêm vào thần Kim Qui, rất tiện mà cũng đáng tin hơn? Câu hỏi này tất nhiên dẫn đến câu hỏi nữa: Vậy thì thần Kim Qui ra đời trong trí não người Việt cổ vào khi nào? Và thêm nghi vấn: phải chăng vào thời câu chuyện bánh chưng, bánh dày ra đời, chưa có thần Kim Qui (động vật linh hóa) mà chỉ có các vị thần siêu hình như: thần Lửa, thần Nước, thần Sấm Sét, thần Đất… và thần của các thần là thần Mặt Trời, và vị nữ thần kia chính là thần Mặt Trời?
Tại sao thần Mặt Trời lại mang tính nữ trong khi ngày nay chúng ta gọi là Ông Mặt Trời (và cả Ông Trời)? Tại vì thần Mặt Trời ra đời trong chế độ Mẫu hệ - Mẫu quyền (chúng ta cho rằng chế độ này tồn tại rất lâu trong lịch sử loài người và được duy trì, nói riêng tại Việt Nam, đến tận thời đại Âu - Lạc). Có thể rằng đến cuối thời đại Âu - Lạc, đầu thời đại Hùng Vương, người Việt cổ vẫn gọi thần Mặt Trời là Bà Trời hay Bà Mặt Trời. Khi sang chế độ phụ quyền, Bà Mặt Trời phải “chuyển đổi giới tính” theo để thành Ông Mặt Trời.
Người Nhật gọi thần Mặt Trời là Amaterasu O Mikami (Thiên chiếu đại thần, Thái dương thần nữ). Về mặt âm thanh nó gợi cho chúng ta nhớ về tiếng A-U-M thiêng liêng đã từng vang vọng trên miền đất Ấn Độ từ thuở xa vời, đồng thời cả tiếng ÂU trong Âu - Lạc (Âu - Cơ). Khẩu khí của chúng xuất phát trực tiếp từ cùng một gốc, thậm chí, một trong hai tiếng là gốc của tiếng kia.
Theo các hiền triết của Ấn Độ cổ đại thì AUM là một âm thanh thiêng liêng và huyền bí. Đó là biểu hiện của Brahman (Vũ Trụ) ở cả hai trạng thái thể hiện và không thể hiện. Trong Katha Upanishad có câu chuyện về Nicheketas và Yama (Tử Thần). Nicheketas, con một tín đồ Bà La Môn nghèo nhưng sùng đạo. Chàng được Yama thương tình cho phép thỏa mãn 3 điều ước. Chàng bèn ước điều thứ nhất là được sống sót trở về với phụ thân, điều thứ hai là biết cách hưởng phúc thiên đàng và điều thứ ba là xin được giảng dạy về đời sống của linh hồn sau khi chết. Về điều ước thứ ba, Yama nói: “Ngay cả đến các thần linh cũng còn ngờ vực về chuyện ấy. Quả thật điều đó không dễ gì mà hiểu được vì chân lý này tinh tế quá. Hỡi Nicheketas, con hãy chọn một điều ước khác…”. Nhưng chàng trai vẫn cứ tha thiết khẩn cầu và cuối cùng, Yama nhượng bộ: “Tiếng nói mà mọi kinh Vêđa đều phát biểu, mọi công cuộc tu trì đều tuyên dương, tiếng mà những ai sống cuộc đời tu học đều mong ước thực hiện, ta nói cho con nghe: đó là AUM. Tiếng ấy chính là tinh thần hằng cữu; tiếng ấy chính là cứu cánh cùng tột. Người nào thấu triệt được tiếng ấy thì muốn gì cũng sẽ thực hiện được. Trụ cột này hoàn hảo nhất. Trụ cột này là cái tối cao. Biết được trụ cột ấy, con người sẽ sáng danh trong cõi Phạm Thiên (Vũ trụ). Tiếng ấy khi được phát ra từ Tự Ngã, nó trở thành âm thanh vô cảm, vô hình, vô vị, vô hương, vô thủy vô chung hơn cái lớn nhất. Nhận biết được điều ấy, con sẽ thoát khỏi tử thần.”
Tiếng AUM đúng là quá ư thiêng liêng và huyền bí! Nó thiêng liêng là nhờ có sự giảng giải của các bậc hiền triết Ấn Độ cổ đại. Nó huyền bí là vì không biết từ đâu và từ bao giờ, nó nghiễm nhiên xuất hiện trong Kinh Vêđa, phát ra từ miệng của các vị chủ tế trong những buổi lễ xướng ca, xưng tụng thành kính.
Có một linh cảm sâu xa, thầm thì mách bảo cho chúng ta biết (hay chính cái nỗi niềm tha thiết yêu thương xứ sở và các bậc tiên tổ của mình đã làm chúng ta nghĩ ngợi mê man?!), rằng tiếng ÂU cũng thiêng liêng cùng tột như AUM. Thế nhưng tiếng ÂU không lạnh lùng, huyền bí mà nghe thật gần gũi, dung dị và cả tự nhiên như vốn dĩ thế. Trong tất cả các bảng chữ cái có mẫu tự Latinh thì đứng đầu tiên là nguyên âm A. Sắp xếp thế thôi chứ A không phải là tiếng đầu tiên được phát ra từ thanh quản của con người để đóng vai trò như xuất phát điểm trong quá trình hình thành ngôn ngữ. Ngôn ngữ ngày nay chắc rằng đã kế thừa từ một dạng ngôn ngữ sơ khai chưa có phụ âm và phải kết hợp chặt chẽ (lệ thuộc) với “chỉ trỏ”, với điệu bộ các bộ phận thân thể mới có thể làm người “nghe” hiểu được. Trên bước đường tiến hóa thích nghi, đến một giai đoạn nào đấy, do sự bức thiết phải trao đổi với nhau bằng âm thanh phát ra từ thanh quản (với cấu trúc răng, hàm, lưỡi, môi… đã định hình và đặc thù hóa ở người), mà xuất hiện một tập hợp những âm thanh có tính hệ thống và hàm chứa khái niệm. Tiếng đầu tiên của hệ thống ngôn ngữ “ú a ú ớ” ấy, phát ra khi môi mở ở trạng thái tự nhiên nhất nhằm cố gây sự chú ý hoặc biểu lộ sự thảng thốt, có lẽ là tiếng Ơ, mạnh hơn nữa là tiếng Â. Thời nguyên thủy, để hú gọi nhau, tiếng  phải cao vang dài, miệng mở to hơn, rồi sau đó hạ thấp dần xuống (hết hơi), độ mở của miệng cũng nhỏ lại, môi hơi chu và như thế, tiếng  biến thái thành tiếng ÂU (ẤU, ẦU), còn nếu ngậm luôn môi lại thì sẽ là ÂUM. Phải chăng tiếng ÂUM chính là tiếng AUM thiêng liêng và huyền bí về sau đã xuất hiện trong thánh kinh Vêđa của Ấn Độ cổ đại? Còn tiếng ÂU? Có thể coi nó là hợp âm kế tiếp nhau của tiếng Ơ và U và cùng với tiếng Ơ và U hợp thành bộ ba ngôn từ cơ sở làm nên hệ thống ngôn ngữ “ú a ú ớ” nguyên thủy của người Việt tối cổ.
Một trong những yếu tố đầu tiên làm hình thành nên ngôn ngữ nguyên thủy là sự học hỏi bắt chước những âm thanh, giọng điệu có sẵn trong thiên nhiên như tiếng suối, tiếng gió, tiếng sấm… cho đến tiếng của muông thú. Đối với người Việt tối cổ (hay đúng hơn là đối với tổ tiên xa xôi của họ: người Mẫu La - Người ở xứ sở Mặt Trời, hay còn gọi là xứ Địa Đàng?), sự trầm bổng của âm thanh đã đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành ngôn ngữ và cũng vì vậy mà ngày nay ngôn ngữ Việt Nam là một trong những ngôn ngữ khó nói nhất thế giới đối với người ngoại quốc: “Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam”. Đó là thứ ngôn ngữ “hát” và phải hát cho đúng cách (tuân theo luật bằng, trắc), nếu không… “bố ai mà hiểu được”.
Tiếng ÂU lúc đầu chỉ đơn giản đóng vai trò như tiếng hú, gọi đồng loại, tương tự như tiếng ƠI ngày nay. (Hay phải nói ngược lại là tiếng Ơ là đơn vị âm thanh đầu tiên của ngôn ngữ nguyên thủy, tiếng ÂU xuất hiện sau tiếng ƠI. Tiếng ƠI mới là tiếng hú gọi, còn tiếng ÂU đóng vai trò như một sự báo hiệu, thông báo, diễn tả cho nhau về một sự vật - hiện tượng nào đó mới xuất hiện, đáng chú ý, khác thường, quan trọng…?). Dần dần, tiếng ÂU khắc sâu vào tâm trí người Việt tối cổ cái ấn tượng về sự dung chứa, đùm bọc, bao trùm, nổi trội… trong không gian, thời gian và cả trong cảm giác. Sự nghèo nàn âm tiết trong ngôn ngữ nguyên thủy đã gây ra hiện tượng phổ biến là một tiếng phải “gánh vác” nhiều ý nghĩa có liên quan trong chừng mực nào đó với nhau, cũng như là danh xưng của nhiều sự vật - hiện tượng về mặt nào đó “na ná” nhau (như hiện tượng đồng âm dị nghĩa ngày nay). Tương tự như mặt trăng, mặt trời, mặt đất, mặt người… đều là “mặt” cả, có thể vào giai đoạn nào đó, người Việt tối cổ đã gọi mặt trăng, mặt trời, hồ rộng, sông dài, rừng thẳm, núi cao… đều là ÂU cả.
Không như tiếng AUM huyền bí và cô độc, quá trình chuyển hóa và hoàn thiện của ngôn ngữ Việt đã làm cho tiếng ÂU trở thành “tổ tông”, cái gốc xuất phát của một lô một lốc các tiếng xuất hiện sau này chỉ sự vật - hiện tượng hoặc đơn thuần là tiếng đệm, nhắn nhủ, cảm thán… Chúng ta liệt kê ra đây một số để làm bằng chứng (chứ không phải thực chứng!!!):
Âu (sầu), đau (đớn), (dài) lâu, mau (chóng), tâu (vua), ầu (ơ), ấu (thơ), cáu (kỉnh), tàu (lá), màu (sắc), trâu (bò), (mưa) ngâu, thâu (đêm), gầu (múc nước), ao (hồ), (đục) ngầu, trầu cau, nấu (cơm), bầu (bí), âu (thuyền), (dãi) dầu, thấu (suốt), âu (yếm), chầu (chực), (cất) giấu, cao (cả), xấu (xí), ẩu (tả), đầu (đuôi), mẩu, mấu, mẫu, xâu (chuỗi)…
Cuối cùng, khi ÂU đã hoàn thành vai trò lịch sử của nó thì nó cũng trở thành thiêng liêng, “chỉ còn” mang ý nghĩa ám chỉ trời, đất, nước, rừng một cách trừu tượng, chung nhất (tương tự như: khái niệm thiên nhiên; tồn tại) và trong thời đại mẫu hệ, còn mang khái niệm “Mẹ”, được gọi một cách tôn kính (Âu Cơ).
Để định danh cho một thời tạo hình lãnh thổ với cuộc chinh phục, khai khẩn vĩ đại vùng đồng bằng châu thổ mênh mang nước nổi Bắc Bộ - Việt Nam, người Việt cổ đã lấy tiếng Âu thiêng liêng kết hợp với tiếng Lạc (nác) có nghĩa nguyên sơ là nước thành tên gọi Âu - Lạc để rồi từ đó mà ra đời truyền thuyết huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân tuyệt đẹp.
Cũng nhờ có sự kết hợp Âu - Lạc này mà ngày nay chúng ta mới có những từ ngữ đồng nghĩa với “Tổ quốc” hay ám chỉ nghĩa ấy, là:
Đất - nước,
Núi - sông,
Non - nước.
Và trong cái quan niệm lưỡng phân, lưỡng hợp, tương phản đối ứng về Tự Nhiên của người Việt cổ, sự kết hợp Âu - Lạc đã được “biến tấu” thành các cặp khái niệm diễn tả quan niệm ấy. Cũng như sáng tạo, phân định và sắp xếp tên gọi các sự vật - hiện tượng, các thuộc tính hiện diện trong thực tại theo quan niệm ấy. Chúng ta sẽ liệt kê một số ra đây (theo kiểu trời - trăng; mây - biển, ước đoán hú họa chứ không dựa trên sự khảo cứu khoa học nghiêm túc nào):
Tiên - Rồng                              Nàng - Chàng
Cái - Đực                                 Núi - Rừng
Bà - Ông                                  Trời - Biển
Nữ - Nam                                Lửa - Nước
Ruộng - Lúa                             Ngày - Đêm
Nương - Lang                          Mở - Đóng
Trắng - Đen                              Mẹ - Cha
Nặng - Nhẹ                              Nắng - Mưa
Mái - Trống                              Nông - Sâu
Sự kết đôi từ hai âm đơn (mang hai khái niệm tương phản nhau) để tạo thành âm kép có khái niệm mới (thường) bao quát hơn, là hiện tượng phổ biến trong ngôn ngữ Việt. Có thể thấy rằng đó là kết quả tất yếu của cái quan niệm về một thế giới tương phản nhưng đối ứng lưỡng hợp thống nhất, đã hình thành rất sớm trong nhận thức của người Việt cổ. ÂU là khởi đầu mà cũng là kết thúc, là MỘT mà cũng là HAI, là phân ly mà cũng là thống nhất, là tiếng gọi về cái TẤT CẢ, cái Thực Tại thiêng liêng. Để rồi rất có thể từ đó mà xuất phát ra cặp tiếng mang khái niệm chung nhất, tổng quát nhất về tính tương phản đối ứng, lưỡng phân lưỡng hợp của Thế giới khách quan, là ÂU - Ơ với nghĩa nôm na là CÓ - KHÔNG (HỮU - VÔ). Phải chăng gốc của ÂU - CƠ là ÂU - Ơ (hay ÂU - MƠ: thấu - mơ, thức - ngủ) và ÂU - MƠ cũng chính là nguồn cội cổ xưa nhất của cặp khái niệm ÂM - DƯƠNG “khét tiếng” khắp đất Á trời ÂU cho đến tận ngày nay? Chúng ta đoán rằng ý nghĩa Âm và Dương lúc khởi thủy và trong thời đại mẫu quyền có khác biệt so với quan niệm ở thời đại phụ hệ hay như ngày nay.
Rốt cuộc lại, có khả năng chính Âu Cơ chứ không phải ai khác đã là vị nữ thần báo mộng cho Lang Liêu cách làm ra bánh chưng, bánh dày mô phỏng theo hình tượng trời, đất.
Nhưng tại sao và từ đâu mà Âu Cơ lại cho rằng trời tròn như cái bát úp còn đất thì vuông vức? Chúng ta tin tưởng mãnh liệt vào điều này: Bà Âu Cơ đã “nhìn thấy” hình vuông Hà Đồ (tượng trưng cho Đất) và hình tròn Lạc Thư (tượng trưng cho Trời, Bát Quái) của các nhà thông thái Việt cổ (hay cũng có thể là chính Lang Liêu đã nhìn thấy trong thời gian được họ dạy dỗ) mà sau này NTT đã bắt chước, họa lại. (Đến thời trống đồng Ngọc Lũ, cái quan niệm trời tròn đất vuông chắc rằng đã chẳng còn ai tin nữa. Nó chỉ còn là một kỷ niệm đẹp đẽ. Lúc này có thể người Văn Lang đã quan niệm trời là một cái vòm tròn, chụp lên mặt đất phẳng như một cái mâm tròn hoặc cũng có thể là quan niệm trời là một cái bầu tròn chứa trái đất hình cầu ở giữa).
Chuyện bánh chưng bánh dày là như thế và bây giờ đến chuyện cây nêu.
Ở nông thôn Việt Nam xưa, mỗi dịp Tết đến, trong sân mỗi nhà, trên sân đình làng, sân chùa đều có trồng một cây tre đã vạt cành nhánh nhưng để ngọn, gọi là cây nêu. Trồng nêu ngày Tết cũng là một tập tục cổ truyền. người ta thường dựng nêu vào ngày 30 tháng Chạp, nghe nói ở miền Bắc nêu được dựng vào buổi trưa (lúc chính Ngọ), ở miền Trung vào buổi chiều, còn ở miền Nam vào lúc chạng vạng, chiều tối. Trên ngọn nêu, thường người ta treo túm lá dứa, túm lông gà, lá thiên tuế hay những chiếc khánh bằng đất nung, những con cá bằng đất nung cùng một tán tròn bằng tre, nhỏ, xấp tiền âm phủ… Ở măt đất, cạnh chân cây nêu, người ta rắc vôi bột hình cung tên, mũi tên hướng ra phía cổng…
Nhìn chung, tập tục trồng nêu ngày Tết của người Việt là như thế, nhưng có những dị biệt về các thứ treo trên ngọn nêu và bày vẽ dưới đất kèm theo cây nêu, tùy theo từng địa phương hoặc tộc người.
Trong “Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài”, Alêchxăngđơrốt (Alexandre de Rhodes) viết: “Tục trồng cây nêu vào cuối năm. Trồng bên cạnh nhà một cây nêu cao hơn nóc nhà, trên ngọn buộc hoặc một cái thúng hay một cái hộp nhỏ có đục nhiều lỗ, bên trong đựng thoi vàng giấy, bạc giấy…”
Trong cuốn “Những năm ở Nam”, Giăng Kôphlơ (Jean Kofler) viết: “Trước cửa phủ chúa và các nhà dựng cây nêu lớn, trên ngọn buộc một chùm lá xanh (cành thiên tuế)… hoặc còn buộc một ít giấy vàng bạc, một số rơm con và một lẵng hoa trong đó có mấy đồng tiền… Những người theo đạo Cơ đốc cũng được cha cố cho phép trồng nêu nhưng không được buộc những thứ kể trên.”
Theo Trịnh Hoài Đức trong “Gia Định thành thông chí” thì vào nửa đầu thế kỷ XIX ở Gia Định, trong ngày trừ tịch, nhà nào cũng trồng một cột tre trước cửa, trên đầu cột buộc một cái giỏ tre trong đựng trầu cau và vôi, bên cạnh treo giấy vàng bạc.
Người Mường, Thái, BaNa, Gia Rai… đều có tục trồng nêu tương tự.
Điều thú vị là ở xã Xuân Hội, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, dân vạn chài, làng chài, sống trên thuyền, Tết cũng cắm trên thuyền một cây nêu gọi là “cây nêu thuyền”. Cây nên này không phải bằng tre mà là cây Lau, dài khoảng trên một sải tay, để 1 lá, trên treo 2 nén vàng, 2 đến 3 lá vàng nữa. Còn dân làng ven biển (cũng ở xã này vẫn trồng nêu bằng tre nhưng trên ngọn buộc cây lau, treo bộ đồ mã gồm: 1 lá vàng, 1 nén vàng và 1 áo. Có người cho rằng dùng cây lau làm nêu là tàn dư của Tết Thu (mùa thu có bông lau. Phải chăng Tết Thu (Tết giữa năm) đã có từ thời trống đồng Ngọc Lũ?
Ngày ấy, không biết tự bao giờ, bỗng dưng lũ Quỉ xuất hiện và chiếm hết đất nước. Con người thành kẻ ăn nhờ ở đậu, phải làm rẽ (làm ăn chia thành quả theo yêu sách của chủ đất) ruộng đất cho Quỉ và cống nộp hoa màu theo yêu sách ngang ngược của chúng. Một lần, thấy Người trồng lúa, Quỉ đòi Người phải nộp cho nó phần ngọn. Vì thế, sau vụ gặt, Người chỉ còn toàn rạ là rạ. Cảnh tượng đói khát thê thảm diễn ra khắp nơi nơi. Quỉ cười đắc chí còn Người cơ hồ sắp bị tuyệt diệt. Phật từ Tây Phương đến bảo với Người rằng đừng trồng lúa nữa mà hãy cào đất thành luống trồng khoai. Vụ đó, Quỉ không ngờ Người được Phật giúp nên vẫn giữ nguyên thể lệ chia phần “ăn ngọn cho gốc”. Thế là Người giữ lại hết cả và sống no đủ, còn Quỉ thì nhìn đống lá khoai hậm hực nhưng không làm gì được. Mùa sau, Quỉ thay đổi thể lệ, nói “Ăn gốc cho ngọn”. Phật bảo Người trở lại trồng lúa. Sau kỳ thu hoạch, Quỉ chỉ còn toàn rạ là rạ. Chúng tức lộn ruột, quát: “Từ nay, chúng tao lấy hết cả ngọn lẫn gốc!”. Phật trao cho Người hạt ngô và bảo đem gieo trồng thứ ấy. Đến cuối vụ mùa, Người bẻ hết bắp ngô mang về, để lại cây ngô đã trụi bắp cho Quỉ. Thua cuộc lần này làm Quỉ điên tiết, bắt Người phải trả lại hết ruộng đất, không cho làm rẽ nữa. Phật lại hiện ra bảo Người đi nói khéo với Quỉ cho trồng một cây cột tre, trên ngọn có mắc chiếc áo cà sa và mua miếng đất bằng bóng chiếc áo cà sa phủ xuống. Quỉ nghĩ bóng chiếc áo cà sa thì có đâu bao nhiêu, bèn đồng ý nhưng đòi giá đắt ơi là đắt. Nghe lời Phật, Người cũng chấp nhận trả giá đó. Hai bên bắt tay giao kèo: đất ở trong bóng áo là của Người, đất ở ngoài bóng áo là của Quỉ. Quỉ hí hửng phen này Người phải chết cả nút. Thế nhưng khi Người trồng xong cây tre thì Phật tung áo cà sa lên ngọn, tỏa ra thành miếng vải tròn, rồi Phật lại hóa phép cho cây tre cao vút lên mãi, đến tận trời làm cho bóng áo cà sa dần dần phủ kín khắp mặt đất. Lũ Quỉ dắt díu nhau lùi mãi, cuối cùng phải chạy ra biển Đông. Vì vậy sau này người ta còn gọi chúng là Quỉ Đông. Tiếc vì đất đai hoa màu đã thuộc về Người, Quỉ rủ rê các loài thú dữ như chó ngao, bạch xà, hắc hổ… quay lại đuổi đánh Người. Nhưng nhờ có Phật cầm gậy ngăn chặn nên chúng không làm gì được. Quỉ bèn dò la xem Phật sợ gì. Phật cho chúng biết là sợ hoa quả, oản, chuối, cơm nắm, trứng luộc. Sau khi tìm hiểu, Phật cũng biết Quỉ  sợ máu chó, lá dứa, tỏi và vôi bột. Thế là Quỉ ném về phía Phật không biết cơ man nào là đồ ăn. Phật kêu Người nhặt gom lại mà làm lương thực dự trữ đồng thời đem máu chó vẩy khắp nơi làm Quỉ hoảng hồn bỏ chạy. Tuy nhiên Quỉ còn cố quay lại đánh người hai lần nữa. Lần thứ hai, Người giã tỏi phun vào chúng. Quỉ lại bỏ chạy. Đến lần thứ ba thì Người còn lấy lá dứa quất vào chúng. Lần này Quỉ chạy không kịp, bị Phật bắt, đày trở lại ra biển Đông. Lũ Quỉ cùng rập đầu van lạy nài xin Phật thương tình cho phép chúng một năm vào đất liền vài ba ngày thăm lại nơi ăn chốn ở của tổ tiên, ông cha ngày trước. Thấy chúng khóc lóc thiểu não quá, Phật thương tình, hứa cho. Từ đó, hàng năm, cứ Tết là Quỉ lại vào thăm đất liền. Để dọa Quỉ, không cho chúng dám bén mảng đến chỗ Người ở, mọi nhà đều trồng cây nêu trước sân. Trên ngọn nêu có khánh đất, mỗi khi có gió thì phát ra tiếng động cho Quỉ nghe mà tránh, lại còn buộc thêm một bó lá dứa hay cành đa cho Quỉ thấy mà sợ. Ngoài ra, cạnh gốc cây nêu, người ta còn rắc vôi bột, vẽ hình cung tên hướng mũi ngọn về phía Đông để cấm cửa Quỉ. Ngày nay còn lưu truyền câu tục ngữ:
                           Cành đa lá dứa treo kiêu
                           Vôi bột rắc ngõ, chớ trêu mọi nhà
                           Quỉ vào rồi Quỉ lại ra
                           Cành đa lá dứa thì ta cứa mồm
Sự tích cây nêu là như thế, nhưng như chúng ra đã có lần phỏng đoán, cây nêu chính là di tích, hình bóng còn lưu lại của cây cột chuẩn mốc ngày xưa mà tổ tiên chúng ta đã dựng lên để dùng vào việc đo đạc, phân chia thời gian, theo dõi sự biến chuyển mùa màng, thời tiết, xác định và điều chỉnh lịch… Dần dần về sau, ở một trình độ khoa học - kỹ thuật cao hơn, người Việt cổ đã không dùng đến cây cột chuẩn đơn sơ đó để xác định thời gian nữa mà chuyển sang cách thức khác tiện lợi, chính xác hơn. (Phải chăng vào thời trống đồng Ngọc Lũ, các nhà thông thái Việt cổ đã có được một công cụ xác định thời gian tương tự như cái “Nhật khuê” của người Ai Cập cổ đại và công cụ này chính là cái mà hầu hết những người trong hai đoàn người đang đi trên trống đồng Ngọc Lũ cầm trên tay?). Khi công dụng thực tiễn đắc lực một thời phục vụ đời sống con người không còn nữa, và hồi ức về nó cũng dần nhạt nhòa đi thì đồng thời cây cột đó cũng được linh thiêng hóa, trở thành cây nêu và tập tục trồng nêu vào dịp Tết của người Việt xuất hiện. Chắc rằng, trước khi sự tích cây nêu vừa kể ở trên, ra đời, cây nêu được quan niệm là biểu tượng của mối giao hòa, liên kết Trời - Đất. Vòng tròn đỏ trên ngọn nêu là tượng trưng cho Mặt Trời (hoặc sau này cũng có thể là tượng trưng cho cả Thần Lửa, Kim Âu, Kim Ô, Chim Thần…). Khi mùa đông lạnh giá qua đi, chim thần về đậu ở đó, đem theo ánh nắng ấm áp và tươi sáng của Mặt Trời về xua đuổi hết xui xẻo, bệnh tật, làm nên một mùa xuân rạng rỡ, chứa chan hy vọng.

                                                                       ***
Vào ngày 30 tháng Chạp, cùng lúc với việc dựng nêu, người ta cũng tổ chức bày biện lễ vật để cúng tổ tiên “rước các cụ” về cùng ăn Tết chung vui. Sau khi gia chủ (quần áo chỉnh tề) đã khấn vái xong và tuần nhang cũng đã cháy hết (có nơi chỉ cần cháy hết quá nửa là được), cỗ cúng được hạ xuống và cả nhà quây quần đoàn tụ quanh mâm cơm ăn bữa cỗ “Tất niên”. Đây là bữa cơm cuối cùng trong năm nên cũng mang ý nghĩa long trọng, nhà nào cũng cố chuẩn bị cho tươm tất nhất. Đối với những nhà sung túc thì bao giờ cũng rất thịnh soạn và cũng rất vui vẻ. Những người trong gia đình, dù trong năm làm ăn xa xôi đâu đó thì cũng đều cố gắng về cho kịp mà dự bữa cơm này.
Càng về tối, người qua lại trên đường làng, ngõ xóm càng thưa thớt. Các nhà đều lần lượt đóng cổng vì “tối như đêm 30” biết đâu chừng “chú chích” lại lẻn vào “khoắng” một mẻ để kiếm chác.
Bàn thờ gia tiên lúc này vẫn được thắp sáng và có khi còn sáng hơn vì ngoài đèn “Tự đăng”, còn có nến, đèn đĩa, đèn thường dùng… Nén hương sáo, hương vòng cũng nghi ngút khói bay, tỏa hương thơm khắp nhà. Mọi nhà đều sửa soạn vào lễ trừ tịch. Người ta lập hương án cúng tế quan Hành Khiển ở giữa sân. Lễ vật gồm bánh chưng, trầu rượu, vàng bạc mã, hương đèn, xôi gà… Nghi lễ được tiến hành đúng Giao Thừa, tức là thời điểm năm cũ qua đi, đồng thời năm mới đã đến (đúng 12 giờ đêm). Đó còn gọi là lễ “Tống cựu nghênh tân” (Tiễn cũ đón mới). Lúc này cựu vương Hành Khiển bàn giao công việc coi sóc trần gian lại cho tân vương Hành Khiển.
Ở những nơi công cộng như đình, chùa, công quán, nghi thức lễ này xưa kia rất trịnh trọng.
Lễ định rằng sau khi cúng Giao Thừa xong thì phải cúng Thổ Công, vị thần “đệ nhất gia chi chủ” với lễ vật tương tự, coi như là “rước ông Công” về nhà ăn Tết và ở lại luôn cho đến 23 tháng Chạp năm mới (người ta thay bộ ba ông Táo mới).
Giao Thừa là thời điểm thiêng liêng, là giây phút chu chuyển vĩ đại của Trời - Đất. Một năm cũ bề bộn sự việc qua đi, một năm mới y hệt như thế nhưng cũng đầy bí ẩn đang đến. Từ đời này qua đời khác, thời khoảng đón Giao thừa đã gieo vào tâm khảm con người cái cảm giác hồi hộp mà háo hức đến kỳ lạ với lẫn lộn biết bao nhiêu tâm trạng, biết bao nhiêu nỗi niềm. Hình như càng gần tới thời điểm thiêng liêng đó, thời gian càng trôi chậm lại, không gian càng lắng xuống, vận động của vạn vật càng trì trệ, tất cả sinh linh như nín thở chờ đợi để rồi đột nhiên cùng bừng rộ, lại tràn trề sinh khí, đua chen ồn ã, hồ hởi tung tăng bước tiếp đến tương lai và như đồng thanh hát ca: “Chúc mừng Năm mới!”.
Tục đốt pháo không biết có tự bao giờ nhưng cũng đã từng là tập tục cổ truyền, tồn tại dài lâu trong những dịp Tết, đám cưới của người Việt. Vào thời xa xưa hơn, để xua đuổi tà ma, những điều xui rủi đi, cũng như mỗi khi cầu mưa để trồng trọt và cho mùa màng tươi tốt, người ta đã giã cối, gõ mõ, rồi đánh cồng, chiêng, trống ầm ĩ để giả làm tiếng sấm. Có lẽ tục lệ đốt pháo vào dịp Tết có xuất xứ từ sự kiện đó.
Vào thời khắc Giao Thừa, các nhà hầu như đồng loạt đốt pháo. Các tràng pháo đua xen nhau nổ, tạo ra cả một không gian rộng lớn vang rền tiếng nổ giòn tan rộn rã của pháo, xua tan cái tịch mịch, u uẩn và lạnh lẽo của màn đêm. Không gì gây được háo hức, phấn khởi như tiếng pháo đêm Giao Thừa, pháo hoa cũng không bằng! Mùa Xuân chính thức đã về!
Sáng ngày mồng một Tết, pháo lại nổ ran, không kém Giao Thừa, nhưng không đồng loạt vì lúc này là tùy tiện theo ý thích mỗi người, mỗi gia chủ. Xác pháo đêm Giao Thừa và mới đốt rải hồng rực, tươi rói khắp đường, ngõ, sân các nhà ở, đình chùa hòa cùng với sắc màu của muôn hoa vào sáng mồng một Tết làm cho cảnh sắc mùa xuân trở nên tinh khôi, rực rỡ lạ thường. Có thể đó là buổi sáng tuyệt trần nhất của một năm.
Trong khi ngoài sân pháo nổ thì trong nhà gia chủ đã bày mâm cỗ cúng ông bà ông vải tại bàn thờ gia tiên, gọi là lễ Chính Đán. Chính Đán là lễ cúng long trọng nhất mở đầu cho cả một năm nên được mọi người hết sức chú ý. Sự bày biện mâm cỗ tươm tất, không những có ý nghĩa biểu hiện lòng hiếu thảo, tôn kính tổ tiên mà còn là dịp trình làng về khả năng lo liệu tết nhất của gia đình. (Trong dịp Tết, người ta cúng cơm một ngày 3 lần vì cho rằng vào những ngày đó, tổ tiên luôn có mặt trên bàn thờ). Cũng trong buổi sáng này, nhiều nhà mang lễ vật ra chùa, đền, đình, miếu, nhà thờ họ để thắp hương cúng bái.
Trong quan niệm dân gian, mồng một Tết là ngày rất linh thiêng, vì đó là ngày khởi đầu của mọi sự khởi đầu, mà “đầu xuôi” thì “đuôi mới lọt”. Công việc làm ăn, đời sống của mỗi người, mỗi gia đình trong năm mới thành bại, tốt xấu ra sao phần lớn do ngày này quyết định. Do đó mà vào ngày này mọi người đều phải thận trọng kiêng cữ, làm xuất hiện nhiều tục lệ có khi phiền toái như kiêng người không hạp tuổi “xông đất” (người lạ đầu tiên trong ngày ghé vào nhà), kiêng vỗ vai nhau, kiêng đi vào giờ xấu…
Tết cũng là dịp vui chơi, thăm thú, thưởng ngoạn, gặp nhau chúc mừng. Đến nay vẫn còn lưu lại những câu như:
Mồng một thì ở nhà cha
Mồng hai nhà mẹ, mồng ba nhà thầy.
Hay:
Mồng một chơi nhà
Mồng hai chơi ngõ
Mồng ba chơi đình…
Vào ngày mồng 3 Tết, gia chủ bày lễ “cúng đưa” ông bà, tổ tiên trở lại thế giới trên kia. Lễ phẩm cũng là những thứ đã bày trong 3 ngày Tết. Hương hoa, trầu cau… đều thay mới, có nhà thêm đĩa xôi, con gà. Lời khấn của gia chủ thường có nội dung, đại ý:
-         Cảm tạ tổ tiên đã về chơi với con cháu
-         Xin tiễn tổ tiên đi, mong tổ tiên phù hộ cho con cháu
-         Trong 3 ngày Tết, con cháu có phạm gì khiếm khuyết thì xin tổ tiên tha thứ cho.
Sau “cúng đưa” là lễ “hóa vàng” (đốt đồ vàng mã thành tro).
Hóa vàng xong, việc cúng cơm ngày Tết trong các gia đình coi như tạm ổn, gia chủ ra thực hiện những nghi lễ chung của cộng đồng, của làng như “Khai canh”, “Khai sơn”, “Cầu xuân”… cũng như tham gia vào hội hè, đình đám của làng.
Tiễn các cụ đi rồi thì cũng coi như lo xong cái Tết. Mọi người chủ yếu là vui chơi. Có nhiều nhà cũng đã bắt đầu suy tính đến công việc đồng áng, làm vườn tược. Tuy nhiên không ai được chạm tới đất nếu chưa làm lễ “động thổ” (tương tự, đối với người làm rừng là lễ “khai sơn”; đối với ngư dân là lễ “cầu ngư”…).
Thường sau mồng 3 Tết, các làng nông nghiệp làm lễ động thổ. Lễ động thổ cũng được coi là lễ “hạ điền” hay là lễ “khai canh”. Sau lễ này dân làng mới bước vào công việc cày cấy, làm vườn. Ai tự ý cuốc xới trước lễ này sẽ bị làng phạt vạ.
Tết Nguyên Đán kết thúc chính thức bằng lễ “khai hạ” (cũng đồng thời làm lễ hạ nêu). Lễ khai hạ được tổ chức vào ngày mồng 7 tháng Giêng trong nhiều gia đình. Xưa kia, chắc lễ này to lắm nên mới có câu tục ngữ:
                           Cả năm được một rằm tháng 7
                           Cả thảy được một mồng 7 tháng Giêng
Tại sao lại hạ nêu và ăn mừng vào đúng ngày mồng 7 Tết? Đã có nhiều lý giải của các nhà chuyên môn. Riêng chúng ta cho rằng có thể phong tục đó có dính dáng đến “tuần lễ”, ngày mồng 7 là ngày kết thúc tuần đầu tiên của năm mới, hoặc cũng có thể có liên quan đến việc điều chỉnh âm - dương lịch.
Còn rất nhiều tập tục có tính địa phương gắn liền với Tết, khó lòng mà kể cho hết được.
Trong một năm, ngoài Tết Nguyên Đán là lớn nhất, còn nhiều lễ, tết âm lịch khác nữa, tiêu biểu như:
                           Lễ rằm tháng giêng
                           Tết Mồng 3 tháng 3
                           Tết Thanh Minh
                           Tết Trâu, mồng 8 tháng 4
                           Tết Phật Đản, 15 tháng 4
                           Tết Đoan Ngọ, mồng 5 tháng 5
                           Lễ Vu Lan, rằm tháng 7
                           Tết Trung Thu, rằm tháng 8
                           Lễ cơm mới, mồng 10 tháng 10
                           … … …
Nhưng thôi, chúng ta đuối sức rồi, không thể kể thêm được nữa, đành chuyển nhanh sang vấn đề mấu chốt cho xong chuyện trống đồng đã trở nên quá lê thê, “con cà con kê” quá chừng.
Chúng ta từng nói đã khám phá ra một trong những bí ẩn huyền diệu nhất của trống đồng Ngọc Lũ và sẽ trình bày ra. Bây giờ là lúc thực hiện lời hứa ấy.
Trước hết, chúng ta sẽ “copy” lại hình 12 và đặt tên cho nó là hình 14a. Chúng ta bắt đầu quan sát từ vị trí A; theo chiều vận động của người - vật trên mặt trống (và cũng chỉ chú ý tới vành tròn người - vật thôi). Lần này, chúng ta quan tâm tới những thể hiện về số lượng người và chim là chủ yếu.
Hình 14: Hà Đồ trên trống đồng Ngọc Lũ?
Tại A là hai người đang giã cối. Vì chỉ chú ý tới việc đếm số lượng thôi nên chúng ta cho rằng các nhà thông thái Việt cổ khắc họa hai đầu gậy (chày) cắm vào cối để ngầm bảo: bắt đầu đếm từ đây theo chiều vận động. Nhưng đếm đến đâu? Đến C thôi vì ở đó đã có vạch chặn (ngăn cách). Chúng ta đếm trong khoảng đó thấy có 2 người giã cối, 2 con chim trên nóc nhà và 4 người ôm cột. Trong nhà cũng “thấp thoáng” có 3 hình người nhưng vì ở trong nhà nên coi như chúng ta không thấy. Vậy trong khoảng từ A đến C có tổng cộng là 8 đơn vị (cả người lẫn chim). Dù không thực thấy 3 hình người trong nhà nhưng vẫn “có” 3 đơn vị ấy. Đoán rằng đó là 3 đơn vị ảo (tương tự như là không cùng thứ nguyên với 8 đơn vị kia) nên cần phải thể hiện chúng theo cách nào đó. Chúng ta viết số 3 lên đầu số 8 (xem hình 14a)
Từ C, chúng ta tiếp tục đếm và chỉ đến hình (xác) người có con chim (linh hồn) ở trên đầu vì hai người giã cối bắt phải dừng lại ở đó để bắt đầu đếm tiếp đợt mới. Chúng ta đếm được 7 người trong đoàn người, 1 người đứng trước cửa của nhà vòm, 1 (xác) người và 1 chim, tổng cộng là 10 đơn vị. Tuy nhiên, nhìn kỹ thì dưới nhà vòm có hai bàn chân có vẻ như đang hoặc đã dời đi, không ở khu vực đó nên chúng ta loại người này ra. Vậy, tổng cộng chỉ còn 9 đơn vị và chúng ta ghi vào khu vực C - B.
Hai người giã cối ở B bảo: tiếp tục đếm từ đây đến vạch ngăn cách D và chúng ta lại đếm. Tương tự như vùng A - C, chúng ta đếm được ở đây 7 đơn vị thực, hai đơn vị ảo (trong nhà) và cũng ghi tương tự, số 7 vào khu vực B - D và số 2 lên đầu số 7 (tính từ ngoài vào tâm).
Từ vạch chặn D chúng ta đếm tiếp. Có 6 người trong đoàn người, người thứ 6 cầm một cây gậy nhọn đầu (giống lưỡi mác, và ở chuôi gắn cái gì đó như một tấm bảng có dấu vạch) cắm xuống đất và ra lệnh: đến đây là chấm hết. Vùng này vì thế chỉ có 6 đơn vị và chúng ta ghi vào đó.
Tuy nhiên, khu vực F - A chưa được đếm. Tại đây chúng ta thấy có 1 người đứng trước cửa nhà vòm, bên cạnh một (xác) người và 1 con chim trên đầu người đó. Tại sao người trong nhà vòm lại giơ 2 tay lên? Trước đây chúng ta đoán đó là biểu thị của “nhiều” và bây giờ chúng ta cho rằng đó là biểu thị 2 đơn vị. Vậy tổng số ở khu vực này có 4 đơn vị (mang tính ảo vì không thuộc lực lượng được cho phép đếm). Tương tự như nhà vòm ở E, nhà vòm ở đây cũng có chân nên nó cùng với chim và người kia không ở đó. Thế thì 4 đơn vị ảo này đi đến đâu?
Trước tiên phải tìm chỗ cho nhà vòm E cái đã. Nhà vòm E, biểu thị cho số 1, phải di dời theo chiều vận động. Nó không thể dừng ở vị trí ảo của khu vực B - D vì đã có “kẻ” ở đó (số 2). Do đó nó phải đến đứng trên đầu số 6 và chúng ta “ghi” số 1 trên đầu số 6. Đến lượt “đám” nhà vòm F cùng thể xác và linh hồn cạnh nó chỉ còn một vị trí ảo để đến, đó là trên đầu số 9 và ta ghi số 4 vào đó.
Điền số xong, chúng ta hãy quan sát kỹ lại hình 14a. Lạ lùng không kể xiết, đó chính là Hà Đồ nếu chúng ta điền thêm số 5 vào vị trí trung tâm hay tâm điểm của các vành tròn. (Nếu hình tròn trung tâm của trống đồng Ngọc Lũ đúng thực được các nhà thông thái Việt cổ coi là Thái Cực thì sự ẩn chứa số 5 ở đó là điều hiển nhiên!). Để tạo vẻ cổ kính và huyền bí, chúng ta biểu diễn các con số bằng số lượng các chấm tròn và được sơ đồ sắp theo hình tròn của Hà Đồ ở hình 14b. (Phải chăng lúc này người Việt cổ đã quan niệm “trời tròn mà đất cũng tròn”?).
Đến đây, có lẽ cuộc thiền ngộ về trống đồng Ngọc Lũ đã đến hồi kết. Chúng ta không còn biết nói gì hơn nữa mà chỉ xin nhấn mạnh với niềm tin không gì lay chuyển nổi rằng Hà Đồ, Lạc Thư đã là sáng tạo của người Việt tối cổ (hoặc của nền văn minh Địa Đàng còn lưu lại!) và hiện diện dài lâu trên cương vị một công cụ toán học đắc lực. Sau đó, chúng biến thành “pho sách” giảng giải Vũ Trụ, định hình hóa cái quan niệm chất phác về tính tương phản đối ứng, lưỡng phân lưỡng hợp thành như một hệ thống triết lý vừa đúng đắn vừa ngây thơ về Tự Nhiên. Trên cương vị đó, Hà Đồ và Lạc Thư tồn tại trong xã hội cổ ít ra thì cũng đến đời Hùng Vương thứ 7. Có thể cho rằng, đến thời đại trống đồng Ngọc Lũ, trình độ nhận thức về toán học, thiên văn học, vũ trụ học ở các nhà thông thái Việt cổ đã được mở rộng và làm sâu sắc hơn nhiều so với thời trước. Do đó lúc này, Hà Đồ và Lạc Thư đã mất đi tất cả những ứng dụng toán học của chúng và trở thành như những "môhình Vũ Trụ", những di tích, di vật vang bóng một thời, trong lớp phủ thiêng liêng và đầy huyền thoại. Các nhà thông thái Việt cổ đã coi Hà Đồ là di sản văn hóa mang quốc hồn, quốc túy và đã lưu dấu nó trên trống đồng Ngọc Lũ (!?).

Mời xem:

LỜI PHÂN TRẦN

PHẦN I: CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ

PHẦN II: NỀN TẢNG

PHẦN III: NGUỒN CỘI

PHẦN IV: BÁU VẬT