THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG 26/b




PHẦN III:     Nguồn cội

“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.”
.


CHƯƠNG IV: ĐỊA LINH NHÂN KIỆT

“Thủ đô là cái đại tập thành của cả đất nước từ khí non sông tụ lại. Không bàn tán về những thành phố khác, mà nói về Hà Nội thì không ai không nhớ đến bài ca chính khí của nó…
Hà Nội không phải là một đất thánh, theo cái nghĩa tín đồ hành hương, nhưng Hà Nội là một đất thiêng, kẻ ngoài nào mà xúc phạm vào nó là phải đền tội”
(Nguyễn Tuân)
“Khi một giống nòi bị dồn đến chỗ chỉ có thể lựa chọn cái chết và nô lệ thì xông vào cái chết là dũng cảm hơn. Nơi nào mà nó không phải là thiết yếu thì bạo lực mới bị lên án. Có những trường hợp phải công nhận bạo lực bởi vì không còn cách nào khác”
(Nguyễn An Ninh)

 (tiếp theo)
      Thượng hoàng vẫn hết mực tin Hồ Quí Ly trung thành. Nhưng Phế Đế đã thấy âm mưu thoán đoạt của kẻ họ Hồ, cùng kẻ tâm phúc tìm cách khử đi để trừ hậu họa. Lộ chuyện, Quí Ly kêu van với Thượng Hoàng: “Cổ lai chỉ bỏ cháu nuôi con, chứ chưa thấy ai bỏ con nuôi cháu bao giờ”.
Thượng hoàng xuống chiếu trách vua Phế Đế trẻ con, có ý hại kẻ trung thần, nguy đến xã tắc nên giáng xuống làm Minh Đức đại vương, lập con của Nghệ Tông làm vua, lấy hiệu là Thuận Tông (1388 - 1398). Sau đó, Phế Đế bị thắt cổ chết, các quan đồng mưu đều bị giết hại.

Năm 1389, Chế Bồng Nga lại đem quân quấy phá Đại Việt. Hồ Quí Ly đem quân đi cự chiến, nhưng thua trận phải rút chạy. Đến cuối năm, quân Chiêm tiến vào sông Hoàng Giang định đánh Thăng Long. Thượng Hoàng sai Trần Khắc Chân đi chặn, đến đóng ở Hải Triều (vùng Hưng Nhân, Thái Bình và Tiên Lữ, Hải Dương). Hàng trăm chiến thuyền quân Chiêm, tiến vào trận địa phòng ngự của quân Đại Việt. Biết được thuyền chở Chế Bồng Nga nhờ chỉ điểm, Trần Khắc Chân cho quân tập trung bắn vào thuyền ấy, Chế Bồng Nga trúng tên chết. Quân Đại Việt được thể đánh dấn, quân Chiêm đại bại. Nạn Chiêm Thành được giải quyết.
Về già, hình như Thượng hoàng Nghệ Tông cũng lờ mờ thấy được tâm địa của Hồ Quí Ly nên có lần gọi Quí Ly vào điện bảo:
- Nhà ngươi là thân tộc, cho nên bao nhiêu việc nước trẫm đều ủy thác cho cả. Nay quốc thể suy nhược, trẫm thì già rồi, ngày sau con trẫm có nên thì giúp, không thì nhà ngươi tự làm lấy.
Quí Ly cởi mũ, khấu đầu, vừa khóc, vừa thề thốt:
- Nếu hạ thần không hết lòng hết sức giúp vua thì trời tru đất diệt…
Lời thề ấy chưa được tày gang!()
Năm 1394, Thượng hoàng Nghệ Tông mất, Quí Ly lên làm Phụ chính Thái sư, thâu tóm toàn bộ quyền lực. Để dễ bề thoán đoạt, Quí Ly xây thành Tây Đô (tại xã Yên Tôn, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa, dân gian gọi là thành nhà Hồ) và năm 1397, ép vua Thuận Tông dời đô về đó. Thăng Long đổi tên thành Đông Đô.
Năm sau, Quí Ly lại ép Thuận Tông nhường ngôi cho con rồi đi tu ở cung Bảo Thanh tại núi Đại Lại (Thanh Hóa). Thái tử Án lên ngôi lúc 3 tuổi, hiệu là Thiếu Đế (1398 - 1400). Hồ Quí Ly tự xưng là Khâm Đức Hưng Liệt Đại vương, sai người giết Thuận Tông, con rể mình.
Triều Trần lúc đó có Thái Bảo Trần Nguyên Hãn, Thượng tướng quân Trần Khắc Chân lập mưu trừ Hồ Quí Ly. Việc bại lộ, 370 người liên quan bị giết hại. Tháng hai năm Canh Thìn (1400), Hồ Quí Ly bỏ Thiếu Đế rồi tự xưng làm vua, đổi quốc hiệu là Đại Ngu, lật đổ nhà Trần lập nên nhà Hồ. Ngay sau đó truyền ngôi cho con là Hồ Hán Thương, xưng mình là Thái Thượng Hoàng.
Người đương thời đã phán xét Nghệ Tông là ông vua “chí khí đã không có, trí tuệ cũng hèn kém, để cho gian thần lừa đảo, giết hại cả con cháu họ hàng, xa bỏ những trung thần nghĩa sĩ, cứ tin dùng một Quí Ly cho được quyền thế đến nỗi làm xiêu đổ cơ nghiệp nhà Trần”.
Lời phán xét ấy có vẻ là quá nặng chăng?
Nhà Trần tiêu vong là điều không tránh khỏi và đã được báo trước mấy chục năm. Sự phát triển đất nước, xét cho cùng là tự phát tất yếu dẫn đến các cuộc khủng hoảng kinh tế. Sự thiếu sáng suốt không biết cách giải quyết các cuộc khủng hoảng đó dẫn đến cuộc sống của nhân dân, nhất là nông dân ngày càng lâm vào khốn khó, quẫn bách. Đó là nguyên nhân cơ bản dẫn đến bạo loạn, khởi nghĩa nông dân làm thế nước suy yếu, và đồng thời là một trong những nguyên nhân không những không dẹp yên dứt khoát được nạn quấy phá của giặc Chiêm Thành mà còn chịu cho Chế Bồng Nga lộng hành, gây chiến liên miên. Chiến tranh, bạo loạn, giặc giã liên miên, đến lượt chúng, làm cho đời sống nhân dân càng cực khổ, thế nước đã suy yếu càng suy yếu nghiêm trọng, và cùng với thiên tai, mất mùa, đã tác động như những kích hoạt, đẩy nhà Trần mau chóng đến tiêu tan.
Một nguyên nhân khác, có vẻ tầm thường nhưng cũng thật tự nhiên và góp phần quan trọng không kém vào quá trình suy vong của nhà Trần. Đó là khi đất nước đã thanh bình, thịnh vượng, mục tiêu vì dân vì nước để từ đó cũng là vì mình đã bị đảo lộn thứ tự. Kiếp đời hữu hạn đã mâu thuẫn với lý tưởng có vẻ xa vời (nhưng thực ra là chân lý, chính nghĩa và cũng là thượng sách để giữ vững ngai vàng!). Những quan niệm sống đầy tham lam, vị kỷ trỗi dậy, lối sống hưởng lạc, xa hoa, buông thả vô độ một cách mù quáng, đầy bản năng, đầy thú tính trở nên nổi trội. Sự sa đọa và thèm khát thấp hèn, kèm theo là bạc nhược tinh thần và nhẫn tâm, độc ác đã được dung túng vì chính cung đình, nơi tập trung cao nhất của quyền sinh sát đất nước lại là mảnh đất màu mỡ làm nở rộ những hành vi mê muội bản năng và dã man thú tính nhất. Vì thế mà nhà Trần trong giai đoạn tồn tại cuối cùng, cùng với công cụ bạo lực của nó, trước tình cảnh rối bời của đất nước, đã không tìm ra lối thoát, và mặc nhiên trong sự dẫy chết của nó, đã trở thành phản động và ngu xuẩn, quay sang bức hại hơn nữa quần chúng nhân dân, cái gốc cội cưu mang, nuôi sống mình, làm cho mình được vinh hoa phú quí.
Khi đã trở thành lực lượng thù địch của Đại Chúng thì dù không có ngoại xâm, nhà Trần cũng coi như mất nước (hay chính nhà Trần lúc đó đã biến tướng thành giặc ngoại xâm?!). Khi tính chính nghĩa đã không còn thì lý do tồn tại trong lòng dân tộc Việt cũng không còn nữa, nhà Trần tất nhiên phải bị loại trừ, không chóng thì chầy. Và thực tế đã xảy ra đúng như vậy. Dân giàu thì nước mạnh, nước mất thì nhà tan, chân lý ấy đã được khắc ghi đến ngàn đời trên nền trời xanh lồng lộng, có lẽ là bất cứ ai cũng thấy. Các bậc khai quốc công thần của triều đại nhà Trần đã thấy và thấm nhuần được chân lý ấy; nhưng những hậu duệ cuối cùng của triều đại đó, do phần ngợm đã lấn át hết phần người, dù có thấy, cũng chẳng bao giờ hiểu được. Oái ăm là như thế!
Như một định mệnh, cơ nghiệp nhà Trần được lập nên như thế nào thì cũng bị mất đi tương tự như thế ấy. Không có Huệ Tông, Trần Thủ Độ này thì cũng có Huệ Tông, Trần Thủ Độ khác, không có Nghệ Tông, Hồ Quí Ly này thì cũng có Nghệ Tông, Hồ Quí Ly khác, vì luật thịnh - suy buộc phải như thế. Chỉ có điều con người và thời thế của Hồ Quí Ly không thể so sánh được với con người và thời thế của Trần Thủ Độ.
Sự chối bỏ kinh đô Thăng Long của Hồ Quí Ly (hay khí thiêng Thăng Long đã từ chối kẻ thèm khát ngôi báu?), đã bộc lộ tầm nhìn thiển cận của ông ta và là điềm báo về sự ngắn ngủi của một triều đại được sinh ra không biết để làm gì, khi chỉ khác triều đại thời mạt Trần cái nhãn mác, thậm chí còn tệ hại hơn, làm cho đất nước loạn lạc, rối bời và suy yếu hơn nữa.
Không biết Hồ Quí Ly có ý gì mà đổi tên nước thành Đại Ngu? Phải chăng “Ngu” đây là ám chỉ đến tổ tông ông - nhà Ngu nào đó bên Trung Quốc? Hay “Ngu” này hàm nghĩa là khôn ngoan như trong truyện “Ngu Công dời núi”? Theo thiển ý của chúng ta thì Đại Trí có thể trông giống như Ngu, nhưng Đại Ngu thì không thể là Trí được, và cũng không là Ngu được. Vậy thì ý nghĩa Đại Ngu ở đây chỉ đơn giản là… Đại Ngu (hoặc nói lái lại!) thôi!
Hành động dời đô của Hồ Quí Ly chỉ là để phục vụ cho mưu đồ đen tối và ích kỷ cá nhân chứ hoàn toàn không chính đáng, hơn nữa còn bất lợi cho đất nước. Đông Đô, với vị trí đắc địa của nó, vẫn luôn là trung tâm của đất nước, nơi đã khắc sâu nỗi nhớ niềm thương của mọi người dân nước Đại Việt. Còn Tây Đô, như lời của Nguyễn Nhữ Thuyết được ghi trong “Đại Việt sử ký toàn thư”, thì chỉ là nơi “chật hẹp hẻo lánh, cuối nước đầu non, nên với loạn mà không nên với trị, chỉ cậy hiểm được thôi”.
Hồ Quí Ly không phải là không thấy được thảm trạng của đất nước mà như Nghệ Tông nói là “Quốc thể suy nhược”. Chắc rằng ông ta cũng muốn khắc phục thảm trạng ấy và chấn hưng đất nước. Nhưng người đứng đầu nhà nước Đại Ngu đã không biết cách, vì đã không có thể nhận biết được nguồn gốc sâu xa cũng như nguyên nhân cơ bản đưa đến thảm trạng ấy. Do đó, Hồ Quí Ly đã thực hiện hàng loạt cải cách về kinh tế - xã hội, vẫn không dập được đám cháy lúc âm ỉ lúc bộc phát, đang lan tràn khắp nước mà còn như đổ thêm dầu vào lửa.
Về mặt kinh tế, những chính sách quan trọng nhất của Hồ Quí Ly là:
"... hạn điền hạn nô, phát hành tiền giấy và đổi mới chế độ thuế khóa. Hạn điều là trừ các đại vương và trưởng công chúa, hạn chế mức độ sở hữu về số lượng ruộng đất từ quan cho tới thứ dân tối đa là 10 mẫu, số dư ra sau khi đo đạc sẽ sung công. Ai có tội được phép lấy ruộng mà chuộc tội. Chính sách này nhằm trước hết tước đoạt lại số đất đai của đám quí tộc Trần có được trước kia dưới thời Trần nhờ được ưu ái và cũng nhờ chiếm đoạt. Việc này khôg thể không đụng chạm đến quyền lợi của phần lớn địa chủ và quan lại. Tuy nhiên chính sách hạn điền đã tập trung được một số lớn điền đất cho nhà nước để tăng thêm thu nhập từ tô, thuế. Thực chất của quá trình này chỉ là thay đổi tên chủ sở hữu, phân phối lại lợi tức từ ruộng đất ở “phía trên” chứ không đếm xỉa gì đến nông dân, những người trực tiếp nai lưng trên đồng ruộng. Hạn nô là “những người được phép dùng gia nô theo cấp bậc của mình mà dùng nhiều ít khác nhau, số gia nô thừa phải đem sung công. Gia nô đều có ghi dấu hiện vào trán” (Cương Mục)
. Chính sách này của Quí Ly nhằm mục đích (đồng thời với hạn điền) khống chế việc duy trì các lực lượng vũ trang lớn của vương hầu quí tộc cũ nhà Trần, đồng thời tạo thêm nguồn nhân lực cho nhà nước.
Việc phát hành tiền giấy thay cho tiền đồng có thể là chính sách táo bạo của Hồ Quí Ly, nhằm giải quyết khủng hoảng tiền tệ, nạn kiệt quệ tài chính của triều đình. Chính sách này, xét ra chẳng có lợi gì cho dân chúng cả và nếu để lạm phát, chỉ làm cho họ khốn khổ thêm. Nó là giải pháp tình thế và chỉ có lợi cho nhà nước quân chủ chuyên chế trong một thời đoạn.
Chính sách thuế khóa của Quí Ly “tệ” hơn của nhà Trần, tăng thuế ruộng, tăng thuế đinh…
Cho dù Hồ Quí Ly cũng có những hành động được cho là tích cực như lập kho bán thóc rẻ cho người nghèo, mở “Quảng Tế Thư” (kiểu như bệnh viện công), lập hệ đo lường thống nhất trong cân đo đong đếm, sửa đổi chế độ thi cử, khuyến khích học hành…, nhưng những cái đó chỉ có thể ở mức độ hình thức hoặc cũng lại chỉ vì quyền lợi triều đình, không thiết thực đối với đòi hỏi cấp bách của Đại chúng lúc đó, và như vậy trên toàn cục, công cuộc cải cách kinh tế của Hồ Quí Ly về thực chất là vì quyền lợi ích kỷ của tầng lớp thống trị mới, đứng đầu là Quí Ly. Lòng dân không thuận là phải!
Mặt khác, đi đôi với thủ đoạn kinh tế, để củng cố quyền lực, hòng mong xây dựng được một nhà nước mạnh, Hồ Quí Ly còn ra sức trấn áp, loại bỏ, triệt hạ quan lại, tướng tá quý tộc Trần, thực hiện chính sách “pháp trị” hà khắc kiểu hiến binh, mật thám đến độ người quen biết nhau “chỉ nhìn nhau bằng mắt, không dám nói chuyện với nhau bằng lời”, người đương thời gọi Quí Ly là “gian giảo”. Đối với Phật giáo, năm 1396, Quí Ly lệnh: “Những sư chưa đến tuổi 50 đều phải hoàn tục”; thực hiện khảo sát các sư, ai “thông hiểu đạo Phật” thì mới được coi sóc chùa chiền… Lòng người càng thêm ly tán!
Ngót 30 năm làm tôi cho các vua Trần với nhiều năm thực chất là thay vua điều hành đất nước, Hồ Quí Ly đã bắt đầu thực hiện từng bước cải cách của mình trước khi lên ngôi. Thế nhưng sau khi lên ngôi được 6 năm, đứng trước sự xâm lược không thể tránh khỏi của nhà Minh (Trung Quốc), công cuộc cải cách kinh tế và xây dựng đất nước đạt được thành quả gì, tạo nên thế và lực gì? Ngoài một đội quân chính qui có được từ chế độ quân dịch nghiêm khắc ra. Hồ Quí Ly chỉ hầu như còn lại sự đơn độc. Câu hỏi của Hồ Quí Ly trước tả hữu: “Làm thế nào có trăm vạn quân để đánh giặc Bắc?”, và câu nói của Hồ Nguyên Trừng: “Thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo mà thôi”, đã bộc lộ ra tất cả. Nghe sao mà buồn!
Vào đầu thế kỷ XV, dưới triều Minh Thành Tổ (1403 - 1424), nhà Minh đạt đến toàn thịnh và đưa Trung Quốc lên vị trí một đế chế lớn mạnh nhất phương Đông. Cuối năm 1406, Minh Thành Tổ phát động quân tiến đánh nước Đại Việt, à quên, Đại Ngu.
Trước một đội quân xâm lược đông đảo của một đế chế hùng mạnh, Hồ Quí Ly đã không hèn nhát, ông quyết định kháng chiến.
Trước đó, biết rõ dã tâm xâm lược của nhà Minh, Hồ Quí Ly đã tích cực chuẩn bị đối phó. Bằng nhiều biện pháp, ông đã cố gắng xây dựng một lực lượng quân sự chính qui càng đông càng tốt, cho ra sức huấn luyện, tập dượt. Ráo riết tăng cường trang bị vũ khí và thiết bị chiến tranh cho quân đội ấy như đóng hàng loạt thuyền đinh sắt (gọi là “cổ lâu thuyền”), đúc nhiều loại súng thần công. Súng thần công của nhà Hồ được gọi là “thần cơ”, do Hồ Nguyên Trừng (con Hồ Quí Ly và cũng là tướng lĩnh có năng lực của quân nhà Hồ) sáng chế, có sức công phá hơn hẳn các loại khí giới đương thời, gây nhiều nỗi kinh hoàng cho quân Minh sau này. Chính vì thế, khi Hồ Nguyên Trừng bị quân Minh bắt, ông đã được trọng dụng để dạy cho nhà Minh cách đúc súng “thần cơ” đó. Trong “Vân Đài loại ngữ”, Lê Quí Đôn có nhắc đến tình tiết: “Quân Minh khi làm lễ tế súng đều phải tế Trừng”. Bên cạnh đó, Hồ Quí Ly cũng khẩn trương lập thế trận, xây thành đắp lũy phòng ngự, bố trí nhiều lực lượng chặn địch dọc theo các hướng giặc có thể tiến sang (như hướng Lào Cai, hướng Lạng Sơn, các cửa sông, cửa biển…), nhưng chủ yếu là lập phòng tuyến sông Hồng, kéo dài hơn 700 trăm dặm, từ chân núi Tản Viên (Ba Vì) theo sông Đà lên Bạch Hạc và từ đó qua Đông Đô (Thăng Long) trở về xuôi, với hai thành lớn của hệ thống là Đa Bang (Sơn Tây) và Đông Đô. Ngoài công trình phòng ngự chủ yếu đó, Hồ Quí Ly còn thực hiện kế “thanh giã” ở một số nơi (thuộc vùng Lạc Sơn, Hà Bắc, Bắc Thái, Vĩnh Phú…).
Nhìn chung, sự chuẩn bị cho kháng chiến của Hồ Quí Ly là dày công, kỹ càng và tương đối hoàn tất.
Lực lượng xâm lược của quân Minh gồm 21,5 vạn người, chưa kể một số đông dân cư và thổ binh tải lương đi theo, chia làm hai đạo vượt biên giới Đại Ngu.
Tháng 11 - 1406, Trương Phụ xuất quân từ Bằng Tường (Quảng Tây) vượt ải Pha Lũy (Nam Quan) vào Lạng Sơn. Quân tiến phong của Trương Phụ nhanh chóng hạ được ải Lưu Quan và Kê Lăng (Chi Lăng), hai vị trí quan trọng, có địa thế hiểm yếu, do khá đông quân ta phòng giữ. Từ đó giặc tiếp tục tiến về Cần Trạm (quãng Kép - Bắc Giang ngày nay), rồi chiếm Xương Giang, Thị Cầu. Kỵ binh giặc trước đó đã tiến đến Gia Lâm làm nhiệm vụ nghi binh, còn đại quân chúng tắt qua những nơi bỏ trống, tiến đến miền Đa Phúc, Lập Thạch, bắt liên lạc với đạo quân thứ hai. Binh giặc tiến rất nhanh do dọc đường hành quân không vấp phải sức kháng cự nào đáng kể.
Đạo quân giặc thứ hai, do Nhược Thạch chỉ huy, từ Vân Nam vượt biên giới tiến theo sông Hồng, sông Lô. Cánh quân này của giặc cũng nhanh chóng triệt hạ được nhiều đồn ải, đánh tan các bộ phận án ngữ, đốt cháy rất nhiều thuyền chiến của quân Hồ, rồi tiến đến Bạch Hạc.
Ngày 11-12-1406, hai đạo quân Minh, theo kế hoạch đã hội sư với nhau ở bờ bắc sông Hồng chuẩn bị công thành Đa Bang, một cứ điểm trọng yếu của hệ thống phòng ngự nhà Hồ.
Quân nhà Hồ tập trung rất đông ở thành Đa Bang, tiếp tục củng cố thêm cho kiên cố, tăng cường dàn tượng binh, tỏ rõ quyết tâm phòng thủ.
Đêm 20-1-1407, quân Minh nổi lửa, thổi tù và làm hiệu lệnh tấn công. Chúng nhanh chóng vượt sông, lợi dụng bãi cát dưới chân thành làm điểm tựa, nổ súng mãnh liệt, ào ạt vượt hào, công thành. Quân Hồ không địch nổi, phải rút vào thành cố thủ. Từ lúc giặc vượt sông cho đến khi đánh vào trong thành, quân Hồ đều ra sức chống đỡ, có lúc phản kích lại quyết liệt, nhưng cuối cùng không giữ nổi, phải bỏ chạy. Thành Đa Bang nhanh chóng thất thủ, phòng tuyến dày công chuẩn bị coi như tan vỡ. Quân Minh thừa thắng tràn xuống chiếm được Đông Đô vào ngày 22-1-1407. Một số quan lại quí tộc quay sang hàng quân Minh, đánh lại Hồ Quí Ly.
Quân nhà Hồ do Hồ Nguyên Trừng chỉ huy, tiếp tục rút chạy về Hoàng Giang (khúc hạ lưu sông Hồng thuộc địa phận Lý Nhân - Nam Hà). Bị giặc kéo đến đánh thua nữa, phải rút về Muội Hải (Giao Thủy - Nam Hà) xây thành, đắp lũy, đúc súng, đóng thuyền, cố thủ, rồi lại bị đánh thua, đành lui về Đại An (cửa sông Đáy).
Vào khoảng tháng 3, do Muội Hải là nơi ẩm thấp, lại không quen khí hậu thủy thổ, bị ốm đau bệnh tật nhiều nên giặc chuyển quân về Hàm Tử (Hưng Yên). Nhân cơ hội đó, nhà Hồ tập trung được 7 vạn quân, tổ chức phản kích. Nhưng giặc biết trước, mai phục đánh làm cuộc phản công bị thất bại nặng. Hồ Quí Ly cùng Hồ Nguyên Trừng và Hồ Hán Thương (vua Hồ) dẫn bại quân chạy vào Thanh Hóa, cố thủ ở thành Tây Đô.
Đầu mùa hạ năm 1407, Trương Phụ kéo đại quân tấn công Tây Đô, đánh bại quân Hồ. Hồ Quí Ly cùng đình thần cắm cổ chạy dài, đến Lỗi Giang (Mã Giang) thì bị quân Minh đuổi kịp đánh cho tan tác. Lúc này tướng nhà Hồ là Ngụy Thức thấy tình thế vô phương cứu chữa, bèn tâu:
- Nước đã mất, làm ông vua không nên để cho người ta bắt được, xin bệ hạ tự đốt đi mà chết còn hơn.
Hồ Quí Ly cả giận, chém đầu Ngụy Thức rồi dẫn tàn binh chạy về vùng Hà Tĩnh. Quân giặc đuổi bám ráo riết, đến cửa biển Kỳ La (Kỳ Anh, Hà Tĩnh) thì kịp. Quân nhà Hồ nghênh chiến trong bước đường cùng. Trận đánh nổ ra (chắc là xoàng xĩnh thôi!), quân Hồ “nhanh nhẹn” tan nát hoàn toàn. Cha con Hồ Quí Ly cùng nhiều tướng lĩnh, thân thuộc đều bị quân Minh bắt sống, giải về Kim Lăng (Trung Quốc). Triều Hồ đến đây tiêu vong, Đại Ngu kết thúc, nước Đại Việt bị xâm lăng.
Nguyên nhân thất bại của cuộc kháng chiến nhà Hồ chống quân Minh xâm lược đã quá rõ. Hồ Quí ly đã xây dựng được một lực lượng quân sự không kém hùng hậu về quân số và trang thiết bị chiến tranh, đã có đủ thời gian để xây thành đắp lũy kiên cố, công phu và bày binh bố trận kỹ càng. Về tương quan lực lượng ban đầu, chắc chắn quân Hồ không thua kém quân Minh và có phần lợi thế hơn, cho nên Quí Ly mới nghĩ đến chọn trận địa chiến làm cách đánh phòng thủ chủ yếu. Tuy nhiên, sự chuẩn bị có vẻ rất chu đáo và hoàn tất ấy lại thiếu mất một bộ phận cơ bản, một khâu cốt lõi mà Quí Ly dù có ao ước đến mấy cũng không thể có được, đó là khối đoàn kết toàn dân tộc và một tài năng quân sự xuất chúng (chúng ta cho rằng cái sau phụ thuộc vào cái trước!).
Chính vì thế mà quân nhà Hồ tuy đông, được trang bị tốt nhưng “trăm vạn người, trăm vạn lòng” (lời Nguyễn Trãi), không có được cái sức mạnh tinh thần hết sức quý báu của một đội quân tự giác, thoát thai từ “toàn dân vi binh”, một lòng cứu nước, đó là tinh thần chủ động tiến công, ý chí quyết chiến. Bên cạnh đó, tư tưởng chỉ đạo chiến tranh sai lầm của bất tài quân sự Quí Ly đã trực tiếp làm nên chiến bại chóng vánh của quân kháng chiến. Thụ động trong phòng ngự, chạy dài trong rút lui, để cho giặc rảnh rang tập trung quân đánh hết đồn ải này đến thành lũy khác thì quân đông mấy cũng thành ít, mạnh mấy cũng thành yếu. Tướng tài đến mấy cũng có thể phạm sai lầm, nhưng hơn người ở chỗ nhanh chóng phát hiện ra điều ấy, nhanh chóng phán đoán được tình huống và quyết đoán chọn phương án tác chiến mới phù hợp. Ở đây, Quí Ly đã không làm được như vậy. Trước những thất bại trong phòng thủ ở vùng biên giới và những trận đánh dọc đường hành tiến của quân Minh, nhà Hồ không những không thu được chiến quả có ý nghĩa nào mà còn bị tổn thất không nhỏ về lực lượng quân sự. Ấy vậy mà quân Hồ tuyến sau vẫn án binh, cứng đờ, ở đâu củng cố ở đó chờ giặc tới để phòng thủ, đồng nghĩa với chờ bị tiêu diệt. Nếu ngay lúc đó Hồ Quí Ly hiểu ra được tình thế ngày một bất lợi, phát hiện được những biểu hiện mầm mống từ những sự kiện chiến trường vùng biên giới về một nguy cơ thất bại của thế trận co cụm phòng ngự máy móc, mà tìm cách bảo toàn lực lượng, quyết đoán chuyển sang trường kỳ kháng chiến, “kiên thủ chờ suy”, lấy trận Đa Bang và thêm trận Đông Đô làm những trận quyết chiến chiến thuật (đánh nghi binh, ngăn chặn quyết liệt để rút lui an toàn…) tổ chức hàng loạt trận tập kích theo các hướng thường xuyên, liên tục để tiêu hao, phân tán địch, thì quân Hồ rất có thể sẽ phòng thủ được Đại Ngu lâu hơn nhiều, thậm chí có cơ may đánh bại quân xâm lược nhà Minh. Kháng chiến kéo dài chỉ có lợi cho nhà Hồ, vì bản chất phi nhân phi nghĩa của quân xâm lược sẽ bị phơi bày, chiêu bài giả dối “phù Trần, diệt Hồ” của chúng sẽ dần mất tác dụng, tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến tăng lên; sẵn nồng nàn yêu nước và có đủ thời gian lựa chọn, chắc rằng lòng dân sẽ ngày càng hướng về và nhờ thế mà cũng có thể nhận thức chính trị của vua quan nhà Hồ được cải thiện ít nhiều, sĩ khí quân Hồ từ đó sẽ được kích thích lên cao.
Nhưng nếu thế thì không phải lịch sử vì đã là lịch sử thì làm gì có chữ “nếu”. Còn nếu chúng ta vẫn cứ muốn “nếu” thì cái “nếu” ấy chỉ có nghĩa: nếu trứng khôn hơn vịt thì vịt sẽ phải có một chọn lựa là không đẻ ra… trứng, mà đẻ ra vịt con để khỏi khôn hơn nó. Nhưng nếu thế thì làm sao có câu: “Hậu sinh khả úy”? Hay trứng khôn hơn vịt là vì trứng nở ra vịt để “bắt” vịt đẻ ra trứng? Nếu thế thì… Ôi, chữ “nếu”!
Quá khứ không thể trở lại nhưng lịch sử thì có thể lặp lại. Vì thế mà người đọc sử có quyền “nếu” để chọn lựa tương lai. Tương lai như thế nào, có một phần quan trọng phụ thuộc vào hiện tại thấm nhuần đến mức độ nào những bài học lịch sử. Hãy đừng để cho lịch sử lặp lại những đau thương! Phải chăng lời kêu gào ấy là vô vọng?
***

Hồ Quí Ly bị giặc Minh bắt, rồi bị đày làm lính ở Quảng Tây. Đại Ngu mất, nhưng Đại Việt vẫn còn và chưa chịu khuất phục hẳn.
Sau khi xóa bỏ triều Hồ, quân Minh ngay lập tức “Phù Trần” bằng cách ép quan lại Đại Việt tay sai và các bô lão làm tờ thỉnh cầu: “Họ Trần không còn ai nữa và đất An Nam vốn là đất Giao Châu ngày trước, nay xin đặt quận huyện như cũ”. Thế là triều đình nhà Minh xóa bỏ tên nước Đại Việt, đổi làm quận Giao Chỉ, chia làm 15 phủ gồm 41 châu và 210 huyện, lập cơ quan đầu não gồm 3 bộ phận (3 ty) thực hiện việc đô hộ. Về thực chất, đó là hành động thực hiện ý đồ đã có từ trước của kẻ xâm lược: thủ tiêu nền độc lập của nước Đại Việt, sát nhập vĩnh viễn vào lãnh thổ Trung Quốc để tiện bề vơ vét bóc lột tài nguyên, của cải, nhân lực của xứ sở này phục vụ vua quan triều Minh. Thâm độc và cũng bất nhân bất nghĩa nhất là thủ đoạn hủy diệt văn hóa bản thổ và đồng hóa dân tộc, “biến phong tục thành tóc dài răng trắng, hóa làm người Ngô cả” (Việt kiệu thư). Ngay từ lúc phát binh đánh Đại Việt, chính Minh Thành Tổ đã trực tiếp ra lệnh cho bọn tướng lĩnh chỉ huy cuộc xâm lược là phải phá hoại triệt để, sách vở giấy tờ thì “một mảnh giấy, một chữ viết đều thiêu hủy hết”, bia đá thì “đập phá hết, một chữ không được để sót”.
Dưới ách đô hộ của nhà Minh, thành Đông Đô bị đổi tên là thành Đông Quan, được chọn là nơi đầu não của bộ máy chính quyền đô hộ, và như thế, trở thành sào huyệt trung tâm của quân xâm lược.
Để thực hiện dã tâm như đã nói đồng thời để khuất phục hẳn ý chí đấu tranh bất khuất của dân tộc Việt và cũng nhằm triệt để vơ vét bóc lột của cải, xương máu của nhân dân Đại Việt, nhà Minh đã thi hành một chính sách đàn áp, thống trị hết sức nham hiểm và cực kỳ tàn bạo. Một đằng chúng tập hợp đám quí tộc, quan lại đầu hàng, mua chuộc, đào tạo một số người khác lập nên đội ngũ “thổ quan”; ra sức bắt lính (cứ hai hoặc ba suất đinh thì một suất lính) tạo nên đội ngũ “thổ binh”, tổ chức thành một lực lượng ngụy quân ngụy quyền tay sai nhằm chia rẽ nội bộ quần chúng, “dùng người Việt trị người Việt”. Một đằng chúng cho xây dựng trên cả nước gần 40 thành trì lớn làm trụ sở hành chính và căn cứ quân sự, hàng trăm thành lũy, hàng ngàn đồn bốt để kiểm soát, trấn áp các nơi. Riêng xung quanh thành Đông Quan, chúng thiết lập một hệ thống đồn lũy bảo vệ ngoại vi do 5 vệ quân (theo binh chế nhà Minh, mỗi vệ có 5600 quân) đồn trú. Một trong những đồn lũy phòng vệ đó là thành Điên Diêu, hiện còn di tích ở Gia Lâm. Bên cạnh đó là đàn áp thẳng tay, khủng bố tàn khốc các cuộc nổi dậy phản kháng, những người yêu nước, liên tục trên qui mô cả nước của quân Minh. Chúng đã gây ra những tội ác đẫm máu và khét tiếng man rợ như: mổ bụng moi quan, thiêu sống, rán thịt người lấy mỡ, chất thây người làm mồ kỷ niệm, cắt tai người xỏ thành xâu (sau khi giết người, quân Minh cắt tai xỏ xâu, mổ cả bụng người có chửa để cắt tai thai nhi, đem về Đông Quan tính công, lĩnh thưởng).
Về kinh tế, nhà Minh đặt ra vô số thứ thuế đánh vào mọi hạng người, vào mọi ngành nghề làm ăn của nhân dân ta như thuế ruộng, thuế thủ công, thuế đánh cá, thuế săn bắn, thuế làm thổ sản… Về thuế ruộng đất, nhà Minh tăng lên gấp 3 lần so với mức thuế thời nhà Hồ. Việc buôn bán ở các chợ, vận chuyển hàng hóa đều phải đóng thuế nặng. Việc thông thương với nước ngoài bị cấm ngặt. Chỉ trong khoảng hơn nửa năm tiến hành xâm lược, đội quân xâm lược nhà Minh đã cướp đoạt của nhân dân ta 235.900 voi, ngựa, trâu, bò, 13.600.000 thạch thóc, 8670 chiếc thuyền và 2.539.800 vũ khí (Minh sử). Sau khi thiết lập chính quyền đô hộ, sự vơ vét cướp bóc có qui mô rộng lớn hơn nữa.
Chế độ thuế khóa đã nặng nề, nhân dân ta còn chịu một chế độ lao dịch hết sức tàn ác. Hàng năm, tất cả dân binh từ 16 đến 60 tuổi đều phải luân phiên đi phu để xây thành quách, dinh thự, hoặc lên rừng xuống biển, nai lưng tìm kiếm, săn bắn, khai thác sơn lâm thủy hải sản và tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cho lực lượng đô hộ và cống nạp về triều Minh. Trong “Bình Ngô đạo cáo”, Nguyễn Trãi đã lột tả như sau về tội ác của quân Minh thời đó:
“Thui dân đen trên lò bạo ngược
Vùi con đỏ dưới hố tai ương
Lừa chúng dối trời, kế giở đủ muôn nghìn khóe
Động binh gây hấn, ác chứa gần hai chục năm
Vơ vét thuế má, đầm núi chẳng còn tý gì
Lên núi đào vàng xông pha lam chướng, phá rừng đãi cát
Ra khơi mò ngọc giao long, mà lặn biển đông tây
Nhiễu dân đào hầm bẫy hưu đen
Hại vật chăng lưới lùng chả biếc
Cỏ cây sâu bọ không một loài nào được thỏa sống còn
Quan khả khốn cùng chẳng một ai được ở yên ổn…
Rút máu mủ sinh linh, lũ kiệt liệt miệng răng nhờn béo
Đủ công trình thổ mộc, chỗ công tư nhà cửa nguy nga
Chốn hương thôn sưu dịch nặng nề
Trong làng xóm cửi canh bỏ phế
Tát khô nước Đông Hải, khôn rửa sạch tanh hôi
Chẻ hết trúc Nam Sơn, khó ghi hết tội ác”.

Chịu chung với số phận đất nước, Thăng Long cũng chìm ngập trong tang tóc, đau thương, nhưng không hề bi lụy hèn yếu mà phẫn uất, căm hờn. Đại Ngu mất nhưng Đại việt vẫn kháng chiến, Đông Quan bị đọa đày nhưng Thăng Long vẫn quật khởi rồng bay.
Nếu tính từ khi cha con Hồ Quí Ly bị bắt (năm 1407) cho đến khi khởi nghĩa Lam Sơn  giành toàn thắng (năm 1428) thì giặc Minh chiếm đóng nước ta khoảng 20 năm. Nhưng do nhân dân ta liên tục nổi dậy khởi nghĩa hết cuộc này tới cuộc khác rải rác khắp nơi nên ách đô hộ của nhà Minh chỉ được yên ổn trong khoảng 4 năm (1414-1417). Sử gọi khoảng thời gian này là kỷ thuộc Minh. Thực ra cái khoảng lặng đó trên một đất nước địa linh nhân kiệt, lừng danh bất khuất ngay cả trong sử sách Trung Hoa chính là cái yên ắng ghê người của sự tụ hội khí thiêng sông núi làm nên một trận bão dông vĩ đại, quét sạch lũ cướp nước và bán nước. Cũng vì thực trạng Đại Việt như thế cho nên chúng ta thấy ý đồ thâm độc của Minh Thành Tổ, đồng hóa dân tộc Việt, thủ tiêu nước Đại Việt là không thể đạt được, dù có gây ra rất nhiều tổn thất về văn hóa vật thể đối với nhân dân ta.
Ngay từ năm 1407, nhân dân Đông Đô và vùng ngoại vi (tức đất Hà Nội ngày nay) đã không khuất phục và nhiều phen vùng lên đánh quân Minh. Vùng Từ Liêm bị quân Minh coi là “ổ quân ác nghịch” (Việt Kiệu thư) vì ở đây chúng luôn gặp sự kháng cự, chống đối. Năm 1408-1409, nhân dân vùng ngoại vi Đông Quan nổi dậy, phối hợp với quân khởi nghĩa của Trần Ngỗi và của Trần Quí Kháng, nhiều lần uy hiếp chính quyền đầu não của giặc. Năm 1409, Hoàng Cự Liêm khởi nghĩa ở Quảng Oai (Ba Vì). Năm 1410, bùng nổ cuộc khởi nghĩa lớn của Lê Nhị ở Thanh Oai, Từ Liêm và của Lê Khanh ở Thanh Đàm (Thanh Trì). Năm 1411, Phạm Khảng nổi dậy ở vùng tây nam Đông Quan. Năm 1412, Lưu Bổng cầm đầu cuộc khởi nghĩa ở Quảng Oai (Ba Vì).
Những cuộc nổi dậy, ứng nghĩa đó, vì xảy ra gần sát khu vực sào huyệt đầu não giặc trong khi chúng đã rảnh tay, đã giải quyết xong quân nhà Hồ, nên nhanh chóng bị đánh dẹp. Tuy nhiên, sự kháng chiến đó đã nêu tấm gương bất khuất sáng ngời, góp phần thổi bùng lên ngọn lửa vì nước quên thân trong lòng nhân dân cả nước.
Muốn đánh tan quân xâm lược, giải phóng kinh thành khi chúng đã chiếm được nước ta - đội quân của một vương triều đang thịnh nhà Minh, không thể một sớm một chiều và phải ở đâu đó để có thời gian qui tụ và phát triển lực lượng chứ không thể ở nơi gần với “phồn hoa đô hội” được. Thời cuộc đã chọn Lam Sơn và giao cho nó trách nhiệm viếtt tiếp trang sử hào hùng của dân tộc Việt. Vùng đất Thanh Hóa cũng thuộc hàng “tổ quán” hiểm địa, là “gốc cội” công thủ của quân dân Đại Việt trong suốt quá trình lịch sử chống ngoại xâm phương Bắc.
Trong các cuộc khởi nghĩa trước khởi nghĩa Lam Sơn, có hai cuộc khởi nghĩa lớn còn in dấu trong lịch sử mà mỗi lần đọc đến, lòng chúng ta cứ nặng trĩu nỗi niềm yêu, thương, hờn, giận, tiếc nuối, đó là khởi nghĩa Trần Ngỗi và khởi nghĩa Trần Quí Kháng.
Người ta nói: người chép sử chân chính phải thực sự khách quan. Chúng ta thắc mắc: khách quan làm sao được khi bàn tay cầm bút để chép sự kiện lịch sử lại bị điều khiển bởi bộ não hoàn toàn chủ quan của kiếp người? Một bộ não biết suy nghĩ, khi đánh giá một sự vật hiện tượng nào đó, không thể thiếu tính tư tưởng. Mà tư tưởng thoát thai từ đâu nếu không phải là từ những định kiến, và định kiến được kết lại từ đâu nếu không phải là từ quá trình nhận thức? Đã nhận thức thì sao tránh khỏi thị phi? Thị phi chỉ hàm chứa chân lý một khi nó sát với thực tại. Nhưng làm sao biết được điều đó? Dựa trên kinh nghiệm ngàn đời? Vâng, chỉ có thể là như thế! Nhưng kinh nghiệm ngàn đời ở đây nên hiểu là những tinh hoa, những kiến thức (những ý tưởng trong qúa khứ được đa số thừa nhận?) được rút ra, được hun đúc từ lịch sử, thành những bài học lịch sử. Nhưng cũng lại kinh nghiệm cảnh báo rằng: kiến thức vẫn chưa là chắc chắn! Một lịch sử được gọi là khách quan nhất, may ra chỉ có thể là biên niên sử. Một biên niên sử sẽ chẳng giúp ích cho hậu thế được gì ngoài sự… mù tịt. Một khái niệm có nội hàm thì tương tự, một lịch sử phải có nội dung. Nội dung ấy như thế nào là do người chép sử (hoặc người chép lại lịch sử!). Nội dung một sự kiện được một con người cụ thể chép lại để lưu truyền thì không bao giờ là sự kiện đó nữa, nó đã mang tình cảm của người chép mất rồi! Nói như thế thì cần gì những con người tài năng đứng ra chép sử, cần gì phải cố gắng mô tả các sự kiện một cách khách quan, vì đằng nào thì cũng chẳng… đâu vào với đâu cả?! Vui thế thôi chứ “hậu sinh khả úy” mà lại! Chúng ta vô cùng biết ơn những nhà viết sử chân chính và không chân chính, bởi nhờ họ mà hôm nay chúng ta mới thấy được quang cảnh của những hiện tại đã thuộc về quá khứ, đã thấy được cả chiều sâu của những quan niệm, để mà xót xa và cũng tự hào tràn trề về dòng giống, tổ tiên, ông cha thuở trước. Đã là lịch sử thì có đúng có sai, đó là điều cần phải chấp nhận bởi lẽ dù nhận thức có độc lập đến mấy và tư tưởng có tự do đến mấy thì cũng là sản phẩm của một thời đại cụ thể, chưa kể loại lịch sử được viết ra bởi bồi bút, tay sai cho một thế lực nào đó (mà thực ra cũng ẩn chứa ít nhiều sự thật).
Lịch sử có được của ngày hôm nay chính là nhờ có (hoặc bị có?) những ý kiến phản biện. Ý kiến phản biện là tượng trưng cho hậu thế. Lịch sử cũng có quá trình phát triển đến hoàn thiện của nó và đó chính là trách nhiệm của hậu thế. Và một lịch sử sẽ rất gần với thực tại (thời quá khứ) nếu người trực tiếp ghi lại sự kiện và cả người đọc, người chép lại lịch sử, biết cảm nhận buồn vui, hạnh phúc và khổ đau theo như Đức Huyền Diệu mách bảo, nghĩa là theo quan niệm của Đại Chúng đương thời và cũng là ở mọi thời đại. Nhận định của Đại Chúng nhiều khi rất tầm thường, mộc mạc, thô sơ nhưng thường đúng, đích đáng về cái xã hội đầy thị phi mà Đại Chúng đó là nền tảng. Chính vì vậy, chúng ta cho rằng một nhà viết sử hay nghiên cứu lịch sử chân chính, ngoài sự uyên bác ra, phải có lòng nhân hậu. Hiện tại là kết quả tất yếu của quá khứ, nhưng nhờ có những bài học lịch sử mà hiện tại được quyền chọn tương lai. Nếu điều vừa nói là chân lý thì vai trò của các sử gia quan trọng đến cỡ nào?!
Nói gì mà… Thôi đi! Muốn viết những điều nghiêm túc thì đừng nên uống nhiều rượu quá. Còn nếu đã uống nhiều rượu quá thì… Im đi! Ai thế nhỉ? Chúng ta có nói đâu mà bảo im, chúng ta đang viết mà? Bực mình quá! Tôi đây, NTT đây! Ông có biết phía trước là cả một bãi lầy mênh mông vô định mà ông có hứa là sẽ vượt qua trước khi mãn kiếp, nhớ không? Ôi, NTT, ông từ đâu ra vậy, hả? Câm mồm! Ông còn một cuộc hành trình rất xa, có thể là đến tận ngôi sao lấp lánh kia kìa, hoặc là xa hơn nữa. Tại sao ông cứ phải quẩn quanh ở đây, trong khi chính ước mơ của ông lại đang chờ ông ở chân trời Vũ Trụ? Biết thế nào mà nói được đây, NTT ơi? Chúng tôi vẫn biết mình phải đi chứ không thể ở, đời chúng tôi nếu kết thúc thì ít ra cũng kết thúc đằng sau ngôi sao đó, chứ không thể ở chốn này, chốn mà ai cũng cho mình tài giỏi, đầy mưu chước và chẳng ai thèm nghe ai, chốn mà khóc cười chẳng biết vì sao lại khóc cười. Nhưng xin NTT hiểu cho rằng đã là con người thì phải có gốc gác, tổ tiên, ông bà, cha mẹ, vợ con; đã là con người thì làm sao mà dứt áo bỏ đi được những tình cảm mà nhờ đó chúng ta mới là con người? Mày nói nghe cũng “phê”, thôi, tùy mày lựa chọn, và… Và gì nữa mà “và”, ông cũng say mèm quá xá cỡ rồi chứ nói ai được nữa? “Chúng ta” mà ông gọi là “mày”, là “ông” thì thật… hết biết. Câm họng, lũ lẻo mép! Ông đây mà say á?... Thế thì… Thôi, thôi… ừ, ừ… à, à… Chúng mày muốn làm gì thì làm, ông đây không thèm nói nữa! Ấy chết, thưa bậc thượng thừa, không có ông làm sao có chúng tôi? Ông thông cảm cho, vì chất đầy nỗi niềm nên hãy cho phép chúng tôi giãi bày hết nỗi niềm ấy, dù vắn tắt thôi, để rồi an tâm lên đường, không còn vương vấn cõi lòng nữa. Ừ! Mà lẹ lẹ lên, vì mục đích của sự hoang tưởng không phải là mổ xẻ lịch sử…
Ai ơi, tin đi, lời khuyên chí tình bao giờ cũng hàm chứa ít nhất một chân lý!
Chúng ta cảm ơn NTT, nhưng chúng ta có lựa chọn riêng, và chúng ta lại tiếp tục câu chuyện đâu cho… ra đó.
Tháng 11-1407, Trần Ngỗi - một quý tộc dòng dõi nhà Trần (có thể là con thứ của Nghệ Tông), chạy giặc đến Yên Mô (Ninh Bình), cùng bộ hạ tập hợp được một số người yêu nước (phần đông là người Thiên Trường) nổi dậy, tự xưng là Giản Định hoàng đế với mục tiêu là chống quân Minh, giành độc lập, khôi phục triều Trần. Lực lượng mới nổi còn non, quân Minh lại sớm kéo tới đánh, nên thua trận, rút về Nghệ An. Tại đó, quân Trần Ngỗi phát triển nhanh thành một lực lượng khá lớn gồm nhiều quý tộc, quan lại yêu nước nhà Trần, nhà Hồ và nhiều nhóm nghĩa binh từ các nơi kéo về. Trong đó, đáng chú ý nhất có Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân, Trần Nguyệt Hồ (là những quan lại cũ của nhà Trần, nhà Hồ, ra hàng quân Minh, nhận quan tước của chúng) quay sang giết đám quan lại đô hộ, dẫn binh về hội nghĩa dưới cờ Trần Ngỗi. Họ đều trở thành những tướng xuất sắc của nghĩa quân.
Đầu năm 1408, Trần Ngỗi đánh chiếm các thành Diễn Châu và Nghệ An. Trương Phụ đem quân vào đàn áp. Nghĩa quân tạm rút vào Hóa Châu (vùng Bình - Trị - Thiên) để rồi sau đó lại tiến ra đánh chiếm Nghệ An và đến tháng 7-1407 thì giải phóng được một vùng rộng lớn từ Thanh Hóa trở vào.
Sau một thời gian ngắn củng cố và tăng cường lực lượng, Trần Ngỗi bắt đầu tiến công ra Bắc, đánh thọc sâu vào những căn cứ địch như Bình Than, Hàm Tử, Tam Giang… và vùng ngoại vi thành Đông Quan. Có một hiện tượng rất cảm động là cuộc dấy binh của Trần Ngỗi, theo thời gian, ngày càng được quần chúng hưởng ứng, ủng hộ. Tại Ninh Bình, các quan lại cũ, hào kiệt và dân chúng các nơi theo về rất đông. Dĩ vãng đầy uất ức đã lu mờ trước lòng yêu nước nồng nàn!
Liên tiếp đánh thắng và không ngừng lớn mạnh, vùng giải phóng của quân kháng chiến nhanh chóng được mở rộng, quân Minh phải rút lui cố thủ trong các thành, Đông Quan nằm vào tình thế bị uy hiếp.
Để đối phó với tình hình đó, cuối năm 1408, nhà Minh vội sai Mộc Thạch cùng Lưu Tuấn (Thượng thư bộ binh của nhà Minh) dẫn 4 vạn quân hộc tốc từ Vân Nam sang tiếp viện. Chúng tập trung đến Đông Quan, rồi từ đó hành quân theo đường sông Đáy, tiến đánh nghĩa quân. Đến bến Bồ Cô (Ý Yên, Nam Định) thì quân lực hai bên đụng độ. Một trận giáp chiến ác liệt xảy ra ngày 30-12-1408 ở đó. Trần Ngỗi, trên cương vị Giản Định đế, tự đánh trống thúc quân, tướng sĩ nhà Hậu Trần (tạm gọi như thế vì có sách viết như thế, và gọi như thế cũng không sai!) tả xung hữu đột, phá được quân Minh, chém chết Lưu Tuấn và nhiều tướng địch. Mộc Thạch phải thu tàn quân rút chạy về Cổ Lộng (cũng thuộc Ý Yên), chờ viện binh yểm hộ về thành Đông Quan. Giản Định đế thấy vậy, muốn đánh tràn ra ngay lấy luôn Đông Quan, nhưng hai tướng Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân can gián vì cho rằng phải chờ huy động thêm quân các lộ về mới đủ lực để có thể đè bẹp được quân Minh. Giản Định đế không cho là phải, còn nghe lời dèm pha nên đem Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân giết đi. Trần Ngỗi làm thế chẳng khác gì tự giết mình. Để xảy ra sự kiện ấy, sử không nói rõ, có thể là do hai tướng tỏ ra bất tuân thượng lệnh. Nhưng dù sao đi nữa, trong thời điểm cực kỳ nhạy cảm và đang có rất nhiều triển vọng mà chém một lúc hai danh tướng trụ cột, hết lòng vì mục đích trên hết là đánh đuổi giặc Minh, đồng thời đang được ba quân theo phục, thậm chí là linh hồn của cuộc khởi nghĩa, thì không cần phải có hiểu biết binh pháp, cũng thấy là điều đại kỵ. Hành động này của Trần Ngỗi, không thể nói khác, đã bộc lộ ra cái tầm thường, vị kỷ của con người ông ta và là đòn chí tử làm cho cuộc kháng chiến đang phát triển thuận lợi bỗng trở nên vỡ lỡ. Thật là tiếc nuối vô cùng!
Thấy Giản Định đế giết những người có công, lòng người chán nản, quân sĩ bất bình, nhiều người rời bỏ đội ngũ quân khởi nghĩa. Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị (con của Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân) phản kháng, cùng nhau dẫn quân mình trở về Thanh Hóa, rước Trần Quí Khoáng (cũng là quí tộc nhà Trần, cháu nội của Nghệ Tông) vào La Sơn (Hà Tĩnh) tôn lên làm vua để phò tá vào tháng 4-1409, lấy hiệu là Trùng Quang. Ngay sau đó, tướng Nguyễn Súy của Trùng Quang đế, thừa lệnh đem quân ra đánh úp, bắt được Trần Ngỗi đưa về Nghệ An, đặt làm Thái Thượng hoàng để mong thống nhất lực lượng dưới một ngọn cờ. Nhưng than ôi, ngọn cờ đó đã không vẹn chữ “nhân” nên cũng không còn tròn chữ “nghĩa”!
Sau thất bại Bồ Cô, nhà Minh quyết định gửi thêm một đạo binh tiếp viện, gồm 4,7 vạn người, chịu sự chỉ huy của Trương Dụ (tổng binh) và Vương Hữu.
Trong thời gian đó, quân khởi nghĩa (lúc này dưới danh nghĩa Trùng Quang đế) vẫn giữ vững được vùng giải phóng từ Thanh Hóa trở vào và bắt đầu có nhiều hoạt động quân sự tích cực ở lưu vực sông Hồng và sông Thái Bình.
Cuối tháng 9-1409, Trương Phụ tiến xuống Hàm Tử đánh bại đạo quân của Đặng Dung. Trùng Quang đế cùng với lực lượng thua trận rút lui vào Nghệ An. Chúng đánh quân Hậu Trần ở Hạ Hồng (Ninh Giang). Không chống cự nổi, Thượng Hoàng Giản Định cùng binh thuyền chạy đến Mỹ Lương (Nho Quan, Ninh Bình) thì bị giặc bắt, giải sang Kim Lăng (kinh đô nhà Minh lúc đó, nay là Nam Kinh, Trung Quốc). Trương Phụ tiếp tục tiến đánh Thanh Hóa. Nhân tình hình đó, phong trào đấu tranh giải phóng của dân chúng ngoài Bắc lại trổi dậy mạnh mẽ mà lớn nhất là cuộc nổi dậy ở An Lão (Hải Phòng). Trương Phụ buộc lòng phải bỏ dở cuộc hành quân ở Thanh Hóa, quay ra Bắc đàn áp.
Năm 1410, nhà Minh phát động cuộc chiến tranh với Thát Đát ở biên giới phía bắc Trung Quốc. Trương Phụ được lệnh rút bớt quân ở Giao Chỉ về để tham gia cuộc Bắc Chinh. Phong trào nổi dậy, đấu tranh vũ trang của nhân dân ta, nhờ đó mà phát triển, lan rộng. Thời gian đó có thể là “thiên thời” nhưng vẫn còn thiếu “nhân hòa”, chưa có minh chủ đủ nhân, đủ nghĩa, đủ sáng suốt để tận dụng.
Sau khi đã yên bề phía Bắc, đầu năm 1411, Trương Phục đem theo 2,4 vạn quân trở lại và tháng 7 năm đó đánh vào Thanh Hóa, tiến sâu xuống Diễn Châu, Nghệ An, Tân Bình. Quân của Trùng Quang Đế núng thế phải lui dần vào Thuận Hóa. Bấy giờ, ở Bắc Bộ, khởi nghĩa vũ trang lại trỗi dậy mạnh, Trương Phục đành phải quay ra đối phó, đánh dẹp. Mãi đến tháng 7 năm 1413, quân nhà Minh mới tập trung được lực lượng đánh vào căn cứ của Trùng Quang Đế ở Tân Bình, Thuận Hóa. Sau một thời gian cầm cự với địch, lực lượng suy giảm, quân Hậu Trần phải rút vào Hóa Châu. Trước nguy cơ phải chịu một trận càn quét qui mô lớn của Trương Phụ và Mộc Thạch, để tìm cách hoãn binh, Trùng Quang Đế sai Nguyễn Biểu ra Nghệ An gặp Trương Phụ để điều đình, xin cầu phong. Trương Phụ liền bắt Nguyễn Biểu. Biểu mắng Phụ:
- Chúng bay trong bụng chỉ lo đường chiếm giữ, ngoài miệng lại nói thác đem quân nhân nghĩa đi đánh dẹp. Trước thì nói sang lập họ Trần, sau lại đặt quận huyện để cai trị, rồi tìm kế vơ vét của cải, ức hiếp sinh dân. Chúng bay thật là đồ ăn cướp hung ngược.
Phụ giận điên, sai đem chém Nguyễn Biểu.
Tháng 8-1413, Trương Phụ từ Nghệ An đổ bộ lên cửa Nhật Lệ (Quảng Bình) đánh Hóa Châu. Sau vài trận đánh quyết liệt, nghĩa quân vỡ trận, phải lui dần ra phía bắc và tan rã. Cuối cùng, năm 1914, Trùng Quang Đế, Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị và các tướng lĩnh nghĩa quân lần lượt bị giặc bắt. Và đến đây, phong trào nổi dậy của nhân dân trên cả nước cũng tạm lắng.
Trên đường bị giải về Trung Quốc, Trùng Quang Đế và Đặng Dung đã nhảy xuống biển tự tử, tìm đường về với tổ tông, với linh thiêng sông núi Đại Việt.
***

Lam Sơn (Thọ Xuân, Thanh Hóa) là vùng đất ở tả ngạn sông Chu, là miền chuyển tiếp giữa trung du và thượng du. Vị trí và địa hình Lam Sơn thời bấy giờ rất phù hợp cho những cuộc tụ binh dấy nghĩa.
Ông tổ tam đại (ba đời), người dựng nghiệp đầu tiên của họ Lê ở Lam Sơn là Lê Hối. Lúc đầu, ông cùng gia đình sống ở làng Như Áng chuyên làm ruộng và sống khá phong lưu. Ông vốn chất phác, hiền hậu, ít nói nhưng là người hiểu biết sâu xa, có linh giác, “đoán biết sự việc từ lúc còn chưa hình thành”. Một bữa nọ, khi có việc đi qua vùng Lam Sơn, Lê Hối thấy có một đám quạ xúm xít, bay liệng trên một cái gì đó. Ông cho đó là đất lành bèn đưa cả gia đình đến làm nhà ở dưới chân gò. Sau vài năm khai phá ruộng vườn ở đó, cơ nghiệp nhà ông ngày một phồn thịnh. Con cháu của ông tiếp nối, thuận đà mà phát triển, trở thành hào trưởng xứ Lam Sơn.
Cha của Lê Lợi có tên húy là Khoáng; là người có chí khí và hào hiệp, hiếu khách, thương yêu dân chúng, hay chu cấp cho người nghèo, giúp kẻ hoạn nạn khó khăn, nên cả vùng ai cũng nể phục.
Lê Lợi sinh ngày mồng sáu tháng 8 năm Ất Sửu (tức 10-9-1385), là con thứ ba trong nhà. Lúc nhỏ, Lê Lợi là đứa trẻ thông minh, sáng sủa, có dũng khí. Lớn lên, theo dân gian kể lại thì ông  tướng cao to, mắt sáng miệng rộng, mũi gồ, bả vai trái có 7 nốt ruồi, bước đi khoan thai, tiếng nói vang như chuông, tính tình khẳng khái, có chí tiến thủ và lòng trọng nghĩa khinh tài.
Quãng đời thanh thiếu của Lê Lợi không thể không mắt thấy tai nghe những cảnh, những sự kiện dồn dập và bi hùng về cuộc kháng chiến cũng như những hành động đàn áp, giết chóc tàn ác của quân Minh và những cái chết xả thân, lẫm liệt của quân nghĩa dũng, vì đất Thanh Hóa khoảng thời gian đó đóng vai trò gần như là bãi chiến trường trung tâm của chiến tranh. Do đó sự thực lịch sử về chí tiến thủ và lòng yêu nước mà Lê Lợi có được có thể là kết quả, hòa quyện thành từ sự được kế thừa huyết thống về khả năng trực giác tinh nhạy, tính độ lượng thương người của ông cha và từ sự chứng kiến, suy ngẫm trước thời cuộc bi hùng đó. Đọc những truyền thuyết về Lê Lợi, nếu cẩn thận lược đi những tình tiết phi thường, chúng ta có thể thấy một thực tế là dù mơ hồ, ông đã linh cảm được tương lai đời mình, đã tầm sư học binh thư, đã nghiền ngẫm những sách quí nói về binh thư. Tuy nhiên, sôi kinh nấu sử là một chuyện còn có làu thông kinh sử hay không, lại là chuyện khác. Phải thừa nhận rằng Lê Lợi là một con người có hoài bão lớn, có khả năng đặc biệt thu phục lòng người (khả năng đặc dị này không phải là tài năng uyên bác, hùng biện mà là nhờ vào nội khí, gần giống với thôi miên, do thiên phú, do vận động sinh học nội tại khác thường mà có !) và có tài ở múc độ nhất định. Nhưng với ngần ấy thôi thì chưa đủ để lãnh đạo một cuộc nổi dậy long trời lở đất. Bởi vì dù sao, trong thời đoạn tiền khởi nghĩa, vẫn sống ở một môi trường có vị trí và hoàn cảnh địa lý - xã hội hạn chế, cho nên mức độ cảm nhận bản chất thời cuộc chưa sâu, tầm nhìn chưa đủ rộng, do đó mà sự thấu tỏ về tư tưởng cũng chưa đủ độ chín. Phải chăng Lê Lợi đã nhận thức được điều đó để cho dù hoài bão đã đến với ông từ rất sớm, nhưng chỉ “đánh tiếng” và chờ đợi cho đến khi gặp được những trợ thủ đắc lực cần thiết (mà ông mẫn cảm trực giác được qua sự trình bày của họ về thời thế, về ý nghĩa lớn lao của cuộc nổi dậy…, và cái tài của ông chính là ở chỗ này)?. Có những sự kiện, biến cố lịch sử lạ lùng đến độ dị thường không thể giải thích được bằng bất cứ lập luận khoa học nào mà chỉ có thể bằng con đường tâm linh.
Ngày nay nhiều hiện tượng tâm linh là sự thực hiển nhiên mà những cái đầu khoa học “cứng rắn” nhất cũng không thể bác bỏ được, dù vẫn cứ khăng khăng rằng chúng phi khoa học. Sự khăng khăng đó là chính xác. Tâm linh là phi khoa học bởi vì khoa học chưa đủ trình độ để bao hàm nó, thế thôi! Một sự thực lịch sử mang tính tâm linh, nhiều khi lại “sự thực” hơn sự thực lịch sử mang tính khoa học là vì thế đấy!...
Truyền thuyết kể rằng: Quân Minh biết Lê Lợi là hào kiệt, dụ ông ra làm quan. Ông không thèm ra, nói với thân tín:
- Đại trượng phu phải giúp nước lúc nạn to, lập nên công lớn, chứ lại đi làm đầy tớ cho người ta à!
Sau đó, ông được hồn sư ông mặc áo trắng hiển hiện ra, chỉ cho ngôi huyệt phát “đế vương” ở động Chiêu Nghi. Rồi một người phường chài tên là Lê Thận bắt được một lưỡi gươm cũ. Khi vào tay Lê Lợi, lưỡi gươm tự dưng sáng ngời, nổi lên hàng chữ triện. Hai ngày sau, vợ Lê Lợi ra vườn hái rau lại bắt được một quả ấn báu cũng khắc mấy chữ triện và khắc tên Lê Lợi. Ngày sau nữa lại bắt được một cái chuôi gươm ở gốc đa, có khắc hình con rồng, con hổ và hai chữ “Thanh Thúy”, đem lắp vào lưỡi gươm kia thì vừa khít. Lê Lợi biết đó là thanh gươm thần trời giúp cho. Do đó ông chăm chỉ đọc binh pháp, nuôi chí chờ thời. Gặp được những người chung chí, Lê Lợi dựng cờ nghĩa, đánh đuổi được giặc Minh, thiên hạ thái bình. Một hôm, Lê Lợi, lúc đó đã là vua, ngự thuyền rồng chơi trên hồ Tả Vọng, bỗng thấy một con rùa lớn nổi lên, bơi theo thuyền, liền rút thanh gươm thần chỉ xuống. Không ngờ con rùa ấy đớp lấy thanh gươm thần rồi lặn mất. Bấy giờ, Lê Lợi mới chợt hiểu ra, liền đổi tên hồ ấy là hồ Hoàn Kiếm, hàm nghĩa là trả lại gươm cho trời. Ngày nay, người ta cũng hay gọi hồ Hoàn Kiếm là hồ Gươm.
Nổi bật trong những người trợ thủ đầu tiên đã đến với Lê Lợi, cùng bàn mưu và dựng cờ khởi nghĩa là Nguyễn Trãi.
Nguyễn Ứng Long, nguyên ở huyện Phượng Nhỡn, biết xem địa lý (thuật phong thủy), mới dời mả tổ sang táng ở làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc (nay là huyện Thường Tín, Hà Tây), rồi làm nhà ở, nhập tịch luôn vào làng ấy. Nguyễn Ứng Long có vợ là con gái một quan tể tướng nhà Trần (tức Trần Nguyên Đán) học giỏi, đỗ tiến sĩ, và năm 1401 làm quan cho nhà Hồ, được Hồ Hán Thương phong chức: Trung thư thị lang, hàn lâm viện học sĩ. Lúc đó, ông đã đổi tên thành Nguyễn Phi Khanh. Tiếng là con rể một tể tướng, nhưng trước khi ra làm quan, ông vẫn sống cảnh túng thiếu, đạm bạc bằng nghề dạy học. Quân Minh xâm lược, cha con Quí Ly cùng triều thần bị bắt, trong đó có Phi Khanh.
Nguyễn Trãi, hiệu là Ức Trai, con của Phi Khanh. Ngày nhỏ, Nguyễn Trãi sống với bên ngoại ở Côn Sơn. Sau khi mẹ và ông ngoại lần lượt qua đời, ông trở về sống với cha ở Nhị Khê, được cha kèm cặp và bản thân cũng tu chí học hành. Năm 1400, Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh (tức tiến sĩ), rồi cũng ra làm quan cho nhà Hồ đến chức Ngự sử đài chánh chưởng.
Nguyễn Trãi là người có hiếu, rất thương cha. Ngày cha bị đóng cũi giải sang Ngô (thời bấy giờ nước ta vẫn gọi nhà Minh là Ngô vì trước khi lập nên nhà Minh, Chu Nguyên Chương - Minh Thái Tổ sau này, dựng chính quyền chống nhà Nguyên ở Kim Lăng, tự xưng là Ngô Quốc Công, sau đó tám năm (1364), đổi thành Ngô Vương), Nguyễn Trãi cùng em là Nguyễn Phi Hùng, lẽo đẽo theo đoàn áp giải đến tận cửa ải Pha Lũy (nay là Hữu Nghị Quan). Ở đó Nguyễn Trãi khóc lóc định theo hầu hạ cha đến mãn chiều xế bóng bên xứ người. Nguyễn Phi Khanh thấy vậy bảo:
- Con là người có học, có tài, nên trở về mà tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha, như thế mới là đại hiếu. Đâu cứ phải theo cha, khóc lóc như đàn bà thế, ích gì!
Chàng trai đa sầu đa cảm Nguyễn Trãi nghe lời, từ biệt cha mình, quay về, và từ đó nung nấu lời cha dặn.
Trong khoảng thời gian đó, khắp nước Đại Việt đang sôi sục những cuộc nổi dậy khởi nghĩa chống quân xâm lược, còn dân chúng thì đang rên xiết dưới ách đô hộ bạo ngược của nhà Minh. Thế nhưng tuyệt nhiên không thấy Nguyễn Trãi, người con có mối thù cha sâu nặng ấy, xuất hiện trong bất cứ cuộc nổi dậy chống đối, khởi nghĩa nào. Vì sao vậy? Trong những năm tháng ấy ông ở đâu, làm gì?
Ông là quan văn chứ không phải là tướng võ, do đó có thể là ông cũng nhận thấy vị trí trực tiếp cầm quân xông pha trận mạc là không phù hợp với mình. Hơn nữa, mấy ai đã biết được cái tài tiềm ẩn trong một viên quan nhỏ, thất cơ lỡ vận, chưa chút tiếng tăm gì? Thậm chí là cái tài đó đã đủ độ chín muồi chưa?
Nhiều khả năng, sau khi từ biệt cha, Nguyễn Trãi về lánh ở Côn Sơn tiếp tục sôi kinh nấu sử, ôn văn đọc võ, đồng thời trăn trở, nghiền ngẫm, đánh giá thời cuộc. Chắc rằng một con người thông minh có học, đa sầu đa cảm như ông đã tiếp thu được, thấu đạt được một cách sâu sắc nhất, trọn vẹn nhất khối tư tưởng sáng ngời và tuyệt đẹp về nhân - nghĩa của thời Lý - Trần, cũng như những tinh hoa quân sự, nghệ thuật lãnh đạo kháng chiến - kiến quốc thời đó, có được trên nền tảng tư tưởng có tính chân lý ấy. Từ đó, có thể Nguyễn Trãi đã thấy những điểm yếu không khắc phục được về mục đích cũng như đường lối thực hiện, tất yếu dẫn đến thất bại của các cuộc nổi dậy và khởi nghĩa đương thời. Trong ông dần sáng tỏ một con đường dẫn đất nước vượt qua tai họa. Cha ông dặn “tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha” và ông đã tìm ra cách, chờ đợi thời cơ với một hoài bão lớn lao (có thể còn cao rộng hơn cả hoài bão của Lê Lợi nữa!).
Chí lớn đã nuôi, nhưng tài năng chưa đến dịp được đem ra thi thố, trong khi đất nước ngày một lầm than, lòng Nguyễn Trãi bồn chồn, khắc khoải và đượm buồn. Cái tâm trạng ấy man mác trong câu thơ ông làm ngày ở Côn Sơn: “Dạ y Ngưu Đẩu vọng trung nguyên” (Đêm dõi theo sao Ngưu sao Đẩu mà nhớ về trung nguyên). Trung nguyên ở đây là nói về vùng đồng bằng châu thổ, nơi ấy có làng Nhị Khê, có kinh đô của nước Đại Việt ngày xưa.
Có lần nhớ lại tích Tàu (Tử Mỹ (tức Đỗ Phủ), thi hào đời Đường, trong cuộc loạn An Lộc Sơn, thường đau đớn ôm lòng cô trung với nước; và tích: Bá Nhân (tức Chu Nghi) đời Tấn, làm thượng thư tả bộc xạ, khi nhà Tấn mất, chạy sang Giang Đông, lần dự yến hội cùng các danh sĩ ở Tân Đinh, ông nhìn non sông mà ứa lệ), cám cảnh, Nguyễn Trãi bùi ngùi viết:
“Thần Châu từ thuở nổi can qua
Rên xiết muôn dân đến thế mà
Tử Mỹ ôm trung Đường xã tắc
Bá Nhân chan lệ Tấn sơn hà
Thu về đất lạ lòng nhiều cảm
Đời biến lâu nay khách chóng già
Ba chục năm trời danh tiếng hão
Quay đầu muôn việc giấc nam kha.”
(“Thần Châu” là đất nước được nói một cách trìu mến, kính trọng).
Thế rồi chí lớn gặp nhau: Nguyễn Trãi đã gặp được minh chủ và Lê Lợi đã tìm được đệ nhất hiền tài thiên hạ. Công đầu ấy thuộc về Trần Nguyên Hãn. Lịch sử không nói như vậy nhưng truyền thuyết lịch sử ám chỉ như vậy. Trong không khí đàn áp ngột ngạt và khủng bố khốc liệt thì việc âm mưu nổi dậy phải rất bí mật, hời hợt lộ chuyện cho nhiều người biết là dễ mang họa lớn như chơi. Việc hai người rủ nhau đến ra mắt Lê Lợi không thể là hành động lần mò hú họa được. Có thể đoán rằng Trần Nguyên Hãn đã từng là nghĩa quân tham gia lực lượng của nhị đế, trên bước đường rong ruổi đã gặp và trở thành tâm phúc của Lê Lợi trong việc âm mưu nổi dậy. Vì Trần Nguyên Hãn là em con cô con cậu của Nguyễn Trãi, do đó, trước kia có khả năng hai người đã từng nhiều lần đàm luận về thời cuộc và giãi bày cho nhau về chí hướng. Qua đó Trần Nguyên Hãn biết được Nguyễn Trãi là người có chí, có tài và đã ra sức tiến cử cho Lê Lợi. Trần Nguyên Hãn đi tìm Nguyễn Trãi là nằm trong kế hoạch đó, có sự đồng ý của Lê lợi. Không phải ngẫu nhiên mà truyền thuyết nói đến việc Nguyễn Trãi phải hai lần gặp Lê Lợi. Phải chăng lần đầu gặp nhau là ra mắt, dò hỏi, Lê Lợi nói sơ về ý muốn cứu nước của mình và Nguyễn Trãi thì trình bày nỗi lòng cũng như ý tưởng thực hiện kháng chiến; lần gặp sau là sự tỏ lời quyết tâm đi theo Lê Lợi cùng với những trình bày cụ thể về đường lối, quyết sách cho cuộc kháng chiến của Nguyễn Trãi, để rồi Lê Lợi đã chấp thuận, cùng Nguyễn Trãi và những người thân tín khác xúc tiến việc dấy binh?
Trong “Nam Hải dị nhân”, Phan Kế Bính kể thế này:
“Bấy giờ có người ở làng Hoắc Sa tỉnh Sơn Tây, tên là Trần Nguyên Hãn, đi bán dầu kiếm ăn. Một bữa trời tối, đi qua làng Chèm, mới vào đền Chèm nằm ngủ. Nửa đêm nghe có tiếng ông thần làng khác vào rủ ông Chèm lên chầu trời. Ông Chèm nói có Quốc Công ngủ trọ không đi được. Đến gà gáy, ông thần kia trở về, ông Chèm hỏi trên trời có việc gì thì ông kia nói rằng:
- Thượng Đế thấy nước Nam chưa có chúa, có cho ông Lê Lợi làm chúa, mà ông Nguyễn Trãi thì làm bầy tôi.
Trần Nguyên Hãn nghe rõ câu ấy, chịu khó hỏi dò, tìm đến nhà ông Nguyễn Trãi, kể lại chuyện ấy. Nguyễn Trãi không tin, lại về đền Chèm cầu mộng thì thần báo mộng rằng:
- Việc thiên đình bí mật lắm, không dám nói lộ ra ngoài. Có chị Tiên Dung (chuyện “Nhất dạ trạch” - NV) biết tường việc ấy, vả lại là đàn bà, thì trời không trách đến, ông nên đem vàng đến nơi ấy mà hỏi.
Ông Nguyễn Trãi nghe lời ấy, đến cầu mộng bà Tiên Dung, thì mơ thấy bà ấy gọi bảo rằng:
- Nguyễn Trãi! Lê Lợi làm vua, mà anh thì làm bầy tôi, anh chưa biết chuyện ấy à?
Ông ấy hỏi cặn kẽ lại thì mới biết ông Lê Lợi là người làng Lam Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Mới cùng Trần Nguyên Hãn vào Lam Sơn, hỏi thăm đến nhà ông Lê Lợi. Bấy giờ Thái Tổ (Lê Lợi) còn hàn vi, khi hai ông kia đến, thì ngoài đang mặc áo cánh cộc, vai vác bừa, tay dắt bò ở ngoài đồng về. Hai ông xin vào hầu, Thái Tổ mời nghỉ lại trong nhà. Xảy gặp hôm ấy nhà có giỗ, hai ông kia xuống bếp thổi nấu, trông trộm lên nhà trên, thì thấy ngài cầm dao thái thịt, đang vừa thái vừa ăn.
Hai ông kia bàn riêng với nhau rằng:
- Bà Tiên Dung nói lừa chúng ta đây, có lẽ đâu khí tượng thiên tử mà lại thế kia bao giờ?
Liền cáo từ ra về, lại đến cầu mộng đền bà Tiên Dung, thì thấy báo mộng rằng:
 - Lê Lợi làm vua, trời đã nhất định như thế rồi, chỉ vì chưa có thiên tinh giáng đấy thôi.
Hai ông lần sau lại đến thăm Thái Tổ, thì bấy giờ ngài đã được quyển thiên thư. Khi ấy, đang đêm đóng cửa xem sách. Nguyễn Trãi đứng ngoài cửa dòm vào, rồi đẩy cửa, hai ông cùng vào. Thái Tổ cắp thanh gươm đi ra, hai ông cùng lạy phục xuống đất và nói rằng:
- Chúng tôi xa xôi lặn lội tới đây là vì thấy ngài làm được chúa thiên hạ, xin cho chúng tôi được theo hầu.
Thái Tổ cười, lưu hai người ở lại, mưu việc khởi binh. Ông Nguyễn Trãi lấy mỡ viết vào lá cây tám chữ: “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần” (Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi). Về sau sâu cắn những lá ấy rụng xuống, người ta thấy vậy cho là sự trời định, đồn rực cả lên, bởi thế nhân dân tranh nhau theo về với ông ấy, quân thế mỗi ngày một thịnh”
Năm 1416, Lê Lợi cùng 18 người thân tín nhất (gồm Lê Lai, Nguyễn Trãi… và nhiều người khác, nhưng đặc biệt lạ là không có tên Trần Nguyên Hãn!), làm lễ cắt máu ăn thề, nguyện một lòng đánh giặc cứu nước. Sau này được gọi là “Hội thề Lũng Nhai”. Trong quyển “Những vì sao đất nước”, tập 3, tác giả Nguyễn Anh - Quỳnh Cư, NXB Thanh Niên, năm 1985, có ghi nội dung của lời thề Lũng Nhai, chúng ta trích đoạn:
“Nay phụ đạo chính ở nước chúng tôi là Lê Lợi cùng với bọn Lê Lai cho đến Trương Chiến, mười tám người tuy quê quán họ hàng có khác nhau, nhưng đã kết nghĩa anh em thề cùng như chung một tổ. Phận vinh hiển dù có khác nhau, nguyện tình cùng họ không bao giờ khác.
Nay nhân giặc Ngô xâm chiếm nước Nam, tàn sát nhân dân rất là khổ sở, nên Lê Lợi cùng Lê Lai đến Trương Chiến, mười tám người chung sức đồng lòng, giữ vững đất nước, cho nhân dân ăn ở yên lành, thề sống chết đều phải cùng nhau, không dám quên lời thề ước
(…)
Nếu Lê Lợi, Lê Lai cho đến Trương Chiến sinh lòng này khác, cầu ơn hiện tại, núp bóng quân thù, không cùng đồng lòng, quên lời thề ước, chúng tôi cúi xin trời đất, thần linh giáng cho trăm vạ, từ mình cho đến nhà mình, con cháu, họ hàng đều bị tru diệt, chịu hết hình phạt của trời
Xin có lời thề!”
Mùa xuân năm Mậu Tuất, tức ngày 7-2-1418, Lê Lợi cùng toàn thể nghĩa quân làm lễ tế cờ ở Lam Sơn, tự xưng là Bình Định Vương, truyền hịch đi khắp nơi kêu gọi nhân dân đồng lòng đánh giặc cứu nước, “tiêu diệt quân Minh để đem lại cái phúc thái bình muôn thưở”
Ngày tế cờ, nghĩa quân chỉ gồm vỏn vẹn 600 người và 14 thớt voi, sau đó có tăng lên, nhưng cũng không quá số 2000
Cuộc khởi nghĩa vừa phát động thì khoảng bảy ngày sau, quân Minh từ thành Tây Đô (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) kéo tới đàn áp. Nghĩa quân phải rút khỏi căn cứ Lam Sơn, mai phục ở Lạc Thủy đánh thắng trận đầu tiên. Ngày 21-2-1418, quân giặc nhờ có mấy tên phản bội chỉ đường, đánh úp vào doanh trại quân ta. Để tránh bị tiêu diệt, nghĩa quân phải rút lên núi Chí Linh.
Từ đó cho đến năm 1422, quân Minh liên tục tổ chức nhiều cuộc tiến công vây quét nhằm ra sức tiêu diệt nghĩa quân, cố gắng dẹp tan cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, trung tâm và cũng là niềm hy vọng của phong trào chống xâm lược cả nước. Trong số các cuộc tiến công ấy, có những cuộc rất lớn, hàng chục vạn quân tham gia, kéo dài trên hai tháng; quân được huy động không những từ Tây Đô đến mà còn từ Đông Quan vào, từ Nghệ An ra, kết hợp với bọn tù trưởng phản động Ai Lao từ phía sau đánh tới. Nói chung giặc đã ráo riết áp dụng đủ mọi cách, ồ ạt càn quét, lúc đánh cấp tập thẳng vào căn cứ, lúc bao vây nhiều tầng nhiều ngày, đánh chắc tiến chắc…, thể hiện quyết tâm cao độ trong việc tiêu diệt khởi nghĩa Lam Sơn, vì đã thấy cái nguy cơ biểu hiện ngày một tăng từ cuộc khởi nghĩa này đối với sự rạn nứt và đổ vỡ ách đô hộ của chúng.
Đây là thời kỳ khó khăn chồng chất, cùng cưc nhất của nghĩa quân Lam Sơn. Nhiều lúc tưởng chừng như tuyệt vọng, không gượng nổi, chẳng hạn:
“Khi Lam Sơn lương cạn mấy tuần.
Lúc Khôi Huyện quân không một lữ”
(Bình Ngô đại cáo)
hoặc :
“Vua ta giấu vết núi này, đành nín hơi để náu nương
                              Vợ con lưu ly quân sĩ tan tác”
                                                      (Phú núi Chí Linh)
Nếu đem so sánh thì thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến nhà Hồ, xét trên mọi mặt đều có thuận lợi hơn gấp bội phần. Cuộc dấy binh của Lê Lợi ra đời trong hoàn cảnh nhà Minh đã đặt ách đô hộ lên Đại Việt hơn 10 năm, phong trào nổi dậy kháng chiến trên cả nước bị đàn áp khốc liệt, lắng hẳn xuống đã hơn 3 năm, thung thổ địa hình chiến trường đã hầu như thông thuộc đối với đội quân đàn áp còn rất mạnh, cơ cấu ngụy quân ngụy quyền đã hình thành và phát huy ít nhiều tác dụng, lòng dân khắp nước đang ở trạng thái hoang mang, phân kỳ, chưa đủ thời gian nhận biết để lựa chọn, hướng về, vũ khí và trang bị chiến tranh vào buổi đầu khởi nghĩa hầu như không có gì, quân số ít ỏi và bị tiến đánh, ngay từ lúc “lọt lòng”.
Trong tình thế bất lợi to lớn như vậy, trước sự liên tục đánh phá ác liệt của quân Minh như vậy, với một lực lượng ban đầu còn rất hạn chế về số lượng, vũ khí cũng như kinh nghiệm chiến đấu, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn với ban chỉ huy gồm 18 con người đã đồng lòng nhất trí từ hội thề Lũng Nhai, đứng đầu là một Lê Lợi biết quyết đoán, được quân sư bởi một Nguyễn Trãi đảm lược, đã chiến đấu vô cùng anh hùng và cũng hết mực khôn ngoan. Đó là một cuộc chiến đấu được khích lệ bằng trận thắng mai phục đầu tiên mở ra khả năng “lấy ít địch nhiều” (tiêu diệt 3000 quân địch - trận Lục Thủy), để từ đó vừa đánh vừa xây dựng nhanh chóng một cách đánh dựa trên nền tảng của chiến tranh nhân dân, vừa kế thừa được tinh túy quân sự của các thế hệ đi trước, vừa năng động sáng tạo của riêng nghĩa quân Lam Sơn, và đúng như Nguyễn Trãi nói: “Thế là bởi tai nạn nhiều là gốc dựng nước, lo nghĩ nhiều là cái nền mở nghiệp thành. Trải nhiều biến thì mưu kế sâu, tính việc xa thì thành công kỳ” (Phú núi Chí Linh). Đó là một cuộc chiến đấu ngoan cường chống trả đồng thời cũng quyết liệt tiến công địch một cách linh hoạt, lúc thì mai phục trong căn cứ, khi thì luồn ra đánh úp sau lưng, chủ động phá vây, tập kích tận sào huyệt địch, “bỏ chỗ vững đánh nơi sơ hở, tránh chỗ chắc đánh chỗ hư, dùng sức một nửa mà thành công gấp đôi”. Đó là một cuộc chiến đấu vừa đánh vừa củng cố, phát triển được lực lượng nhờ có nhân dân trong vùng ngày càng hết lòng ủng hộ, càng đánh càng mạnh, bền bỉ, dẻo dai bám trụ và đã đứng vững được trên một địa bàn không lớn, thậm chí là nhỏ hẹp thuộc miền tây Thanh Hóa.
Trong những ngày tháng khó khăn cùng cực nhưng cũng vô cùng anh hùng này của nghĩa quân Lam Sơn, có một tấm gương chiến đấu hy sinh vụt sáng ngời như một ngôi sao băng, đó là sự kiện “Lê Lai liều mình cứu chúa”.
Lê Lai người làng Dụng Tú, huyện Lương Giang (nay là xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lạc, tỉnh Thanh Hóa), liền kề với Lam Sơn. Theo sử cũ thì tổ tiên Lê Lai đời đời làm phụ đạo ở vùng này. Ông với Lê Lợi là chỗ thân thiết với nhau. Ông tướng cao lớn như Lê Lợi, là người khẳng khái, bộc trực và quả cảm. Lê Lai là một trong những người đầu tiên cùng Lê Lợi mưu tính nổi dậy, có mặt trong số 18 người ở hội thề Lũng Nhai và khi Lê Lợi dựng cờ thì Lê Lai cùng các con của ông và nghĩa binh ông tuyển mộ, theo về hưởng ứng.
Tháng 5-1419, quân Minh huy động một lực lượng rất lớn tấn công vào Lam Sơn. Nghĩa quân phải rút về Chí Linh lần thứ hai. Lần này giặc vây chặt, đông đặc cả bốn phía, trong khi lương thực của nghĩa quân ngày một cạn dần. Nguy cơ bị tiêu diệt đã hiện ra trước mắt nghĩa quân. Trong một cuộc họp bàn cùng tướng lĩnh để tìm cách thoát vòng vây, lúc đó, theo “Lam Sơn thực lục”, Lê Lợi hỏi:
- Bây giờ ai có thể làm như Kỷ Tín ngày xưa, để ta ẩn náu trong rừng núi, mưu tính cơ sự về sau?
(Khi Lưu Bang bị Hạng Vũ vây hãm nguy khốn ở Huỳnh Dương, trung thần là Kỷ Tín giả làm Lưu Bang ra hàng và bị giết. Nhờ vậy, Lưu Bang thoát hiểm, về sau giết được Hạng Vũ, lập nên nhà Hán; gọi là Hán Cao Tổ)
Lê Lai đã xung phong lãnh trách nhiệm đó:
- Thần nguyện đổi lấy áo bào. Ngày sau bệ hạ thành nghiệp đế, có được thiên hạ, nhớ dến công thần mà cho con cháu muôn đời của thần được chịu ơn nước. Đó là điều thần mong ước.
Và Lê Lợi đã thề trước mặt người tâm phúc trung nghĩa của mình:
- Lê Lai có công đổi áo, sau này trẫm cùng con cháu trẫm và các tướng tá công thần cùng con cháu họ, nếu không nhớ đến công ấy, thì xin điện cơ này hóa thành rừng núi, ấn báu hóa ra cục đồng, gươm thần hóa ra dao thường.
Rồi, Lê Lai mặc áo bào đóng giả Lê Lợi, dẫn đoàn quân cảm tử lên đường, đánh lạc hướng giặc và vĩnh viễn không bao giờ trở về (ông bị giặc bắt và hành hình man rợ). Được giải vây, Lê Lợi trở lại vào căn cứ Lam Sơn, sau đó lên vùng thượng lưu sông Mã xây dựng một căn cứ mới ở Mường Xôi (sát biên giới Lào), tiếp tục kháng chiến.
Sau ngày toàn thắng, để ghi nhớ công lao của Lê Lai, Lê Lợi đã phong cho Lê Lai làm công thần hạng nhất, truy tặng chức thiếu úy; sai Nguyễn Trãi viết “Tiên ước thệ từ” và “Lai công thệ từ” cất trong tủ vàng để mãi mãi ghi nhớ công ơn Lê Lai. Theo lời dặn dò của Lê Lợi, con cháu nhà Lê sau này làm giỗ Lê Lai trước giỗ Lê Lợi (22 tháng 8 âm lịch) một ngày. Trong dân gian truyền tụng câu “21 Lê Lai, 22 Lê Lợi” là vì thế.
Với sự sống còn đến kỳ lạ, con thuyền tranh đấu Lam Sơn trong phong ba bão táp dữ dội đã có tác động rất mạnh đến phong trào đấu tranh chống xâm lược của nhân dân Đại Việt. Đến khoảng năm 1420, các cuộc khởi nghĩa lớn có, nhỏ có bùng phát khắp nơi, Tình hình đó đã phần nào giảm áp lực đánh phá của giặc lên khởi nghĩa Lam Sơn. Tuy nhiên, chỉ sau một, hai năm các cuộc khởi nghĩa đó dần dần bị dập tắt. Dù sao thì ngọn cờ chính nghĩa của khởi nghĩa Lam Sơn ngày càng được dương cao đã thu hút nhiều lực lượng còn lại của những cuộc khởi nghĩa đã thất bại đó, tụ về.
Cuối năm 1419, từ Mường Xôi, nghĩa quân Lam Sơn bắt đầu tiến xuống hoạt động ở vùng trung lưu sông Mã; thắng nhiều trận bằng mai phục, tập kích, tiêu diệt nhiều địch (như trận tập kích vào trại Quan Du (Quang Hóa), tiêu diệt 1000 tên). Quân Minh phải rút bỏ nhiều đồn, lui về cố thủ Tây Đô.
Cuối năm 1421, hàng vạn quân Minh lại tiến công lên căn cứ địa của nghĩa quân, nhưng cuộc vây quét của địch đã thất bại sau trận tập kích ở Kinh Lộng và trận mai phục ở Đèo Ống (đều thuộc Quang Hóa) của nghĩa quân. Riêng trận tập kích, nghĩa quân đã tiêu diệt trên 1000 tên địch.
Đầu năm 1423, quân Minh lại chia làm 2 mũi gọng kìm, đánh vào căn cứ trung tâm của cuộc kháng chiến Lam Sơn ở tây bắc Thanh Hóa. Nghĩa quân phải rút về Nho Quan rồi từ đó tiếp tục phải rút về núi Chí Linh lần thứ ba. Sau nhiều trận đánh phá vây, quân Lam Sơn chịu khá nhiều tổn thất. Cuộc chiến lâm vào thế giằng co. Về phía ta, dù vùng căn cứ đã mở rộng, nhưng khó khăn còn nhiều, và cũng cần phải củng cố, tăng cường lực lượng. Về phía quân Minh, dù hết sức cố gắng, vẫn không sao tiêu diệt được quân đội kháng chiến, đòi hỏi sự tăng cường binh lực hơn nữa trong khi chưa đủ khả năng đó vì còn phải phân tán lực lượng ở các nơi khác tiếp tục đánh dẹp khởi nghĩa, phòng thủ những thành lũy đồn bót sung yếu, đề phòng nổi dậy, đồng thời bên Trung Quốc, nhà Minh cũng đang gặp nhiều khó khăn trong cuộc chiến tranh với Mông Cổ (từ thập kỷ 30 của thế kỷ XV, nhà Minh bắt đầu bước vào quá trình suy vong!). Tình hình đó đã đưa đến cuộc hòa hoãn 1423 - 1424 giữa nghĩa quân Lam Sơn và quân Minh.
Lợi dụng thời gian hòa hoãn đó, “trong rèn chiến cụ, ngoài giả hòa thân”, nghĩa quân khẩn trương củng cố, tích cực phát triển lực lượng, tăng cường dự trữ lương thực. Trong khi đó, quân Minh một đàng dở thủ đoạn chính trị, mua chuộc Lê Lợi, dụ dỗ tướng lĩnh hòng gây mất đoàn kết nội bộ, làm tan rã hàng ngũ nghĩa quân, đàng khác là tranh thủ thời gian, ổn định nhanh chóng các nơi khác, phân bố lại lượng lượng nhằm tạo điều kiện tập trung toàn bộ lực lượng về Thanh Hóa, đánh đòn quyết định. (Có thể quân Minh thừa hiểu mục đích cuối cùng của cuộc kháng chiến Lam Sơn là đánh đuổi chúng đi. Cuộc kháng chiến đó đã ngoan cường chiến đấu và đạt đến thế lực giằng co với chúng, thì dễ gì mua chuộc được. Có thể thấy thủ đoạn chính trị của quân Minh chỉ là đòn nghi binh).
Đến đây, mầm mống thất bại của quân xâm lược nhà Minh đã bắt đầu bộc lộ. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã chuẩn bị đủ thế và lực để chuyển sang giai đoạn mới - giai đoạn tích cực phản kích, chủ động tiến công, vây thành diệt viện, tiến tới thắng lợi cuối cùng.
***

Nguyễn Chích là một nông dân nghèo ở Đông Sơn (Thanh Hóa). Trước đó, ông đã cầm đầu một đội nghĩa binh khá lớn (lực lượng còn sót lại của cuộc khởi nghĩa Nhị Đế chăng?), hoạt động ở vùng nam Thanh Hóa - bắc Nghệ An. Khi Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, ông đem toàn bộ lực lượng theo về. Nhờ hiểu biết tường tận địa thế vùng Thanh - Nghệ, với nhãn quan quân sự của một người kinh qua trận mạc và trở thành tướng tài, Nguyễn Chích cho rằng nên tạm thời rời bỏ căn cứ chật hẹp ở miền rừng núi Thanh Hóa mà tiến vào chiếm lấy Nghệ An, xây dựng thành căn cứ địa vững chắc, tạo bàn đạp phản công tiêu diệt dịch. Tháng 9-1424, trong cuộc họp bàn các tướng lĩnh nhằm đề ra kế tiến thủ trong thời kỳ mới, mọi người đã nhất trí với đề nghị của Nguyễn Chích: “Nghệ An là nơi hiểm yếu, đất rộng người đông. Tôi đã từng qua lại Nghệ An, nên rất thông thuộc đường đất, nay ta trước hãy đánh lấy Trà Long, chiếm lĩnh bình định cho được Nghệ An để làm chỗ đất dừng chân, rồi dựa vào đấy mà lấy tiền tài sức lực, sau sẽ quay cờ trẩy ra Đông Đô thì có thể tính xong được việc dẹp yên thiên hạ”
Biết quân Minh đã được tăng viện, đang chuẩn bị tấn công lớn, nghĩa quân quyết định hành động trước, di chuyển về hướng Trà Long (Con Cuông - Nghệ An), đánh trong hành tiến. Tháng 10-1424, nghĩa quân hạ thành Đa Căng (Thọ Xuân, Thanh Hóa). Sau đó thắng tiếp một số trận lớn, diệt được các toán quân địch từ Tây Đô đuổi theo và từ Nghệ An ra chặn. Sau hai tháng vây hãm, và ngụy vận, thành Trà Long ra hàng. Dọc đường hành tiến và đánh thắng địch, nhân dân địa phương nhiệt tình hưởng ứng, ủng hộ nghĩa binh, thêm 5 ngàn thanh niên nhập ngũ, có cả những ngụy quân sau khi khoan hồng cũng tình nguyện theo vì “cảm kích, nguyện ra sức lập công”.
Đầu năm 1425, địch huy động toàn bộ quân ở thành Nghệ An ra, theo sông Lam, tiến đến gần Khả Lưu đắp lũy trú quân, nghĩa quân khéo léo nghi binh, nhử địch tiến quân vào nơi đã mai phục sẵn diệt được hàng vạn tên. Địch vẫn còn đông, dựng trại lập lũy nhử nghĩa quân tới đánh. Nghĩa quân cử một bộ phận tiến về phía Thanh Chương hoạt động nghi binh còn đại bộ phận bí mật vòng ra sau lưng địch, mai phục ở Bố Ải. Địch thấy nghĩa quân xuất hiện phía sau, kéo binh tiến đánh, lọt ổ mai phục, bị tiêu diệt rất nhiều mà theo. “Lam Sơn thực lục” thì “thuyền giặc chặn ngang dòng, xác chết nổi lấp sông, khí giới chất đầy khe núi”. Nghĩa quân thừa thắng truy kích ba ngày đêm và tiến về bao vây thành Nghệ An.
Vừa vây thành Nghệ An, quân ta vừa đánh chiếm các phủ, huyện…, đến đâu dân hưởng ứng và giặc xin hàng đến đấy (có trường hợp như tri phủ Ngọc Pha và Cầm Quý mang 8 ngàn quân tới theo Lê Lợi). Trong vòng 3 tháng, toàn phủ được giải phóng (trừ hai thành cô lập bị vây là Nghệ An và Diễn Châu).
Trước tình hình đó, tháng 5-1425, quân Minh huy động một đội binh thuyền, từ Đông Quan, theo đường biển vào Nghệ An ứng cứu. Bị quân ta mai phục đánh thắng một trận lớn ở Đỗ Gia (Hương Sơn, Hà Tĩnh), rồi diệt một đoàn thuyền lương từ Đông Quan vào trong khi vẫn hãm thành Diên Châu, toàn bộ địch ở Nghệ An phải rút hết vào thành, bị động phòng thủ.
Lúc này, bộ chỉ huy cuộc kháng chiến nhận định: “Quân giặc dồn hết về cửa thành Nghệ An, các nơi khác tất trống rỗng”, nên huy động một đạo quân ra vây Tây Đô, giải phóng Thanh Hóa, một đạo quân khác vào giải phóng Tân Binh - Thuận Hóa. Đến đâu cũng được nhân dân hưởng ứng, lực lượng nghĩa binh được bổ sung hàng vạn người. Cuối năm 1425, sau 8 năm kháng chiến anh dũng, nghĩa quân Lam Sơn đã trưởng thành vượt bậc, từ một đội quân du kích nhỏ đã vươn vai thành một lực lượng thiện chiến hàng vạn người đủ cả các binh chủng thủy bộ, thuyền chiến, voi trận… Chiếm giữ một vùng giải phóng rộng lớn, từ Tam Điệp đến nam đèo Hải Vân, tạo thành hậu phương vững chắc cho cuộc tổng tiến công ra Bắc, đánh tan giặc Minh, kết thúc chiến tranh.
Lượng sức đã mạnh trong khi giặc đã suy yếu, dựa vào thành lũy cố thủ chờ viện binh sang, Lê Lợi cùng bộ chỉ huy khởi nghĩa quyết định đánh ra Bắc.
Tháng 9-1946, ba đạo quân tổng cộng trên một vạn người của nghĩa quân khẩn trương hành quân ra, trước là đánh tiêu hao địch, “vỗ về nhân dân”, bao vây uy hiếp thành trại của quân Minh, sau là chuẩn bị kế hoạch đánh viện binh của chúng đang rục rịch tiến sang.
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã phát triển đến cao trào thành cuộc đấu tranh giải phóng của toàn dân trên phạm vi toàn quốc. Ngụy quyền tan rã, chính quyền đô hộ vở lỡ từng mảng, nhiều vùng rộng lớn được giải phóng.
Bị uy hiếp mạnh, quân Minh buộc phải kéo quân từ Đông Quan ra đối phó, bị ta chặn đánh thắng hai trận ở Ninh Kiều (Chương Mỹ - Hà Tây) và Nhân Mục (ngoại thành Hà Nội), tiêu diệt hàng vạn tên. Phía Tam Giang, nghĩa quân cũng tiêu diệt được một bộ phận đáng kể trong số một vạn quân địch ứng cứu từ Vân Nam sang, số còn lại lui vào thành Tam Giang cố thủ. Tổng binh giặc là Trần Trí ở Đông Quan lo sợ, phải bí mật điều bớt quân từ Nghệ An ra tăng cường cho phòng thủ Đông Quan.
Đầu tháng 11-1426, năm vạn viện binh nhà Minh, do Vương Thông chỉ huy, ồ ạt kéo sang, tiến thẳng đến Đông Quan, tăng quân số ở đây lên 10 vạn tên. Với ý đồ nhanh chóng giành lại thế chủ động chiến lược, Vương Thông hùng hổ phản công ngay. Trước đó, đại quân Lam Sơn đã tiến ra tập kết ở Thanh Hóa sẵn sàng cho những đòn đánh lớn.
Vương Thông bày binh dàn ra ba nơi: Cổ Sở (phía tây nam Phùng - Hà Tây), Sa Đôi (vùng Phú Đô thuộc Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội), và ở Thanh Oai với mục đích bao vây tiêu diệt lực lượng nghĩa quân đang hoạt động ở khu vực này.
Không thụ động chờ địch, quân ta (gồm đạo quân đang hoạt động ở vùng Tây nam ngoại vi Đông Quan do Phạm Văn Xảo, Lý Triện chỉ huy và đạo quân đang hoạt động ở vùng nam ngoại vi Đông Quan, do Đinh Lễ, Nguyễn Xí chỉ huy, phối hợp) quyết định ra quân tiến công trước mặc dù lực lượng ít hơn quân địch rất nhiều. Mục tiêu đầu tiên là đánh cánh quân Mỹ Kỳ ở Thanh Oai, tương đối yếu và sơ hở nhất. Nghĩa quân của Phạm Văn Xảo và Lý Triện khéo léo dụ địch đến cầu Ba La (gần thị xã Hà Đông), nơi có địa hình lầy lội, rồi phục binh đổ ra tiêu diệt gần toàn bộ. Tiện đà, nghĩa quân định đánh úp sau lưng cánh quân giặc do Phương Chính chỉ huy ở Sa Đôi, nhưng bọn này đã rút về cụm lại gần cánh quân của Vương Thông ở Cổ Sở. Nghĩa quân cũng lui về Cao Bộ (Chương Mỹ, Hà Tây), hội với nghĩa quân của Đinh Lễ, Nguyễn Xí từ Thanh Đàm kéo tới.
Vương Thông tiến xuống Ninh Kiều, thực hiện kế hoạch chia quân từ trước mặt, sau lưng rồi đồng loạt đánh dồn nghĩa quân để bao vây tiêu diệt. Tương kế tựu kế, nghĩa quân tổ chức mai phục ở Chúc Động, Tốt Động (Chương Mỹ - Hà Tây)
Mờ sáng ngày 7-11-1426, quân Minh lọt vào trận địa mai phục, bị quân ta bất ngờ xông lên từ bốn phía đánh mãnh liệt. Trên 5 vạn địch bị tiêu diệt và bắt sống, các tướng Lý Lượng, Trần Hiệp bị giết. Tổng binh Vương Thông bị thương, vội thu tàn binh rút chạy về Đông Quan.
Chiến thắng Tốt Động - Chúc Động đã phá tan kế hoạch phản công chiến lược nhằm giành lại thế chủ động trên chiến trường của quân Minh và đồng thời trở thành trận thắng lừng danh của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Sau trận thắng lớn có ý nghĩa chiến lược đó, Lê Lợi dẫn đại quân từ Thanh Hóa ra Bắc, tiến đánh thành Đông Quan. Đêm 22-11-1426, nghĩa quân do đích thân Lê Lợi chỉ huy đánh, chính thức mở màn chiến dịch giải phóng Đông Quan. Quân ta tiêu diệt tất cả các căn cứ, cứ điểm phòng vệ ngoại vi, sau đó áp sát thành, ngày đêm công phá dữ dội, Sử cũ chép:
“Vua “Lê Lợi” thân đốc thúc các tướng sĩ ngày đêm đánh thành Đông Đô. Bọn tướng Minh là Vương Thông, Sơn Thọ đánh trận nào thua trận nấy, lòng nản, khí nhụt, kế cùng, viện tuyệt” (Đại Việt sử ký toàn thư)
Đại bản doanh của Bình Định Vương lúc đầu đặt ở Đông Phù Liệt, sau dời lên Tây Phù Kiệt (Thanh Trì), đến đầu năm 1427 dời sang Bồ Đề (Gia Lâm). Bốn đạo quân Lam Sơn đóng đồn trại ở bốn cửa thành Đông Quan, tạo thế vây chặt chẽ, uy hiếp; ngăn chặn việc liên lạc của giặc với bên ngoài.
Vương Thông dùng kế hoãn binh, một mặt xin giảng hòa, một mặt vẫn ngoan cố cố thủ chờ viện binh sang. Quân ta chủ trương vừa siết chặt vòng vây, vừa tích cực địch vận, dụ hàng.
Lợi dụng sơ hở, Vương Thông tổ chức một số cuộc tập kích gây tổn thất cho nghĩa quân Lam Sơn (các tướng Lý Triện, Đinh Lễ hy sinh, Đỗ Bí, Nguyễn Xí bị bắt) nhưng không xoay chuyển nổi tình thế.
Thái độ trí trá, lật lọng của Vương Thông đã làm cho cuộc giảng hòa không đạt kết quả.
Lúc bấy giờ, Đông Quan trở thành mặt trận trung tâm, nóng bỏng nhất.
Đầu năm 1427, nhà Minh ra lệnh điều động 15 vạn quân sang cứu viện. Trong 20 năm xâm lược và đô hộ, nhà Minh đã phải 9 lần gửi viện binh, nhưng đây là lần gửi viện binh lớn nhất, biểu hiện quyết tâm cao độ trong việc duy trì ách đô hộ ở nước ta của chúng.
Trước khi viện binh kéo sang, quân địch chỉ còn đóng giữ, phòng thủ trong bốn thành là Đông Quan, Chí Linh, Cổ Lộng và Tây Đô, với lực lượng gồm 5 vạn ở Đông Quan và 5 vạn phân bổ cho ba thành còn lại.
Lực lượng chủ lực của nghĩa quân có 10 vạn. Lúc đó, các lãnh tụ Lam Sơn đã chủ trương “vây thành diệt viện” hết sức đúng đắn: “Đánh thành là hạ sách, ta đánh thành lâu hàng tháng, hàng năm mà không hạ được, quan ta sức mỏi mà khí nhụt, nếu viện binh giặc đến thì trước mặt, sau lưng đều có giặc, đó là con đường nguy. Không bằng nuôi dài, chừa sức để chờ viện, diệt viện thì thành phải hàng, thế là làm một mà được hai, kế vẹn toàn vậy”.
Đầu tháng 10-1427, viện binh địch chia làm hai đạo tiến vào nước ta, đạo thứ nhất gồm 10 vạn tên do Liễu Thăng chỉ huy theo đường Lạng Sơn, đạo thứ hai gồm 5 vạn theo đường Lào Cai, cùng nhằm hướng Đông Quan. Bên ta điều một vạn quân chặn Mộc Thạch ở phía Lê Hoa (Hà Giang), một vạn quân tiên phong lên mai phục ở ải Chi Lăng, 2 vạn quân tiếp ứng lên sau, tập trung chủ yếu đánh Liễu Thăng, một bộ phận tiếp tục vây các thành, còn đại quân thủy bộ tập trung ở mạn sông Thương.
Quân Liễu Thăng vừa vượt biên giới đã bị quân ta chặn đánh, rồi vừa đánh vừa lui dần từng bước, dụ địch về Chi Lăng. Liễu Thăng thấy đánh dễ, trở nên rất mực chủ quan, dẫn đầu một vạn quân tiên phong, tiến vượt lên phía trước, lọt vào trận địa mai phục, bị nghĩa quân giáng cho một đòn sấm sét, tiêu diệt hoàn toàn, Liễu Thăng bỏ mạng bên sườn núi Mã Yên.
Lực lượng địch phía sau còn đông, tiếp tục đánh mở đường tiến tới. Đạo quân tiếp ứng của nghĩa quân cũng vừa tới kịp, cùng phối hợp đánh thêm một số trận nữa, tiêu diệt thêm 2 vạn quân địch (trong đó có phó tổng binh Lưỡng Minh). Đô đốc Thôi Dụ cùng thượng thư Hoàng Phúc ổn định quân ngũ, mở đường tiến về thành Xương Giang. Dọc đường hành quân, bị quân ta đánh truy kích, tập kích liên tục. Tướng giặc là thượng thư Lý Khánh, quá căng thẳng, tự tử tại Phố Cát.
Đến được Xương Giang thì thành đã mất (bị ta hạ trước khi viện binh sang khoảng nửa tháng), quân Minh phải đóng quân giữa đồng, đắp lũy chống giữ. Ta điều quân tới bao vây chặt để rồi ngày 3-11-1427, mở cuộc tổng công kích. Toàn bộ quân địch bị tiêu diệt. Thôi Dụ, Hoàng Phúc cùng khoảng 3 vạn tên bị bắt sống, số còn lại chết tại trận.
Thế là, chỉ trong vòng một tháng, quân Lam Sơn đã đánh tan đạo viện binh của Liễu Thăng. Chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang là chiến thắng oanh liệt nhất của nghĩa quân Lam Sơn, đóng vai trò như một dấu chấm hết đối với cuộc xâm lược, đối với ách đô hộ và cả đối với cái quyết tâm cứu vãn cuối cùng của nhà Minh. Chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang đi vào sử xanh, trở thành một trong những chiến công hiển hách nhất trong sự nghiệp chống xâm lăng của dân tộc Việt.
Mộc Thạch đang cầm cự với quân ta ở Hà Giang, nghe tin đạo quân Liễu Thăng đã bị tiêu diệt thì mất hết tinh thần, thu quân rút chạy. Quân ta truy kích, đánh một số trận ở Đan Xá, Lãnh Châu, bắt sống cả ngàn và giết chết trên một vạn tên.
Viện binh bị đánh tan, hoàn toàn tuyệt vọng, Vương Thông và quân địch trong các thành buộc phải xin giảng hòa cho rút về nước (thực chất là đầu hàng vô điều kiện). Ngày 29-12-1427, được ta cấp ngựa, thuyền và lương thực đầy đủ, 86000 quân tướng bại trận nhà Minh bắt đầu rút khỏi nước ta và đến ngày 3-1-1428, đất nước Đại Việt sạch bóng thù, hoàn toàn giải phóng.
Sau 10 năm trường kỳ và bền gan chiến đấu, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã giành được thắng lợi rực rỡ. Đã có rất nhiều cuộc nổi dậy, khởi nghĩa nhỏ có lớn có và trong đó từng có những cuộc khởi nghĩa được người đời hy vọng và quần chúng ngày càng hướng về, nhưng đến nửa đường đứt gánh và rốt cuộc thất bại. Cuộc dựng cờ dậy nghĩa ở Lam Sơn, lúc đầu, về mặt hình thức, thì cũng tương tự như mọi cuộc dựng cờ dậy nghĩa khác, về mặt hoàn cảnh, thì có phần khó khăn hơn, thậm chí là rất khó khăn, ấy vậy mà chỉ từ một đốm lửa nhỏ, duy nhất có nó vượt qua được bão tố, bùng lên thành một ngọn lửa lớn rồi bừng bừng lan xuống Nghệ An, lan ra phía Bắc, thiêu cháy sạch bè lũ bán nước và cướp nước. Hiện tượng đó phải hiểu như thế nào?
Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử quân sự đã phân tích rất nhiều về nguyên nhân thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Theo họ thì nguyên nhân có nhiều, nào là có mục đích vì dân vì nước, biết dựa vào dân để đánh lâu dài, nào là có đội ngũ tướng lĩnh mẫn cán, xuất sắc với đường lối quân sự đúng đắn, chỉ đạo chiến lược tài giỏi, có cách đánh sáng tạo, biết kết hợp quân sự với ngoại giao, vừa đánh vừa binh vận v..v… và v..v… và đều đúng cả. tất cả những nguyên nhân đó đều đã được chính Nguyễn Trãi (người trong cuộc) tổng kết. Chung kết lại, đó là:
“Nêu hiệu, gậy làm cờ, tụ tập về khắp bốn phương dân chúng
Thết quân, rượu hòa nước, dưới trên đều một bụng cha con
Lấy yếu chống mạnh, hay đánh bất ngờ
Lấy ít địch nhiều, thường dùng mai phục
Rốt cuộc là lấy đại nghĩa để thắng hung tàn
Đem chí nhân mà thay cường bạo”
(Bình Ngô đại cáo)

Nhưng từ đâu để có được những yếu tố đó, những nguyên nhân đó? Chúng ta cho rằng cái thời đoạn từ lúc có hội thề Lũng Nhai đến năm 1422 đã là hạt nhân làm nên tất cả. Nếu toàn cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là một thiên anh hùng ca về đấu tranh giải phóng dân tộc thì thời đoạn nói trên chính là giai điệu chủ đạo của thiên anh hùng ca ấy. Nó là hạt nhân của quá trình kháng chiến thắng lợi. Nó không chói chang như vàng bạc, lấp lánh rạng rỡ như kim cương, bởi vì nó là một viên ngọc long lanh. Nó là một bài học vô giá một khi còn chiến tranh xâm lược và khởi nghĩa chống xâm lược.
Vùng thượng du Lam Sơn có thể là hiểm yếu, nhưng thiếu gì những nơi có địa hình hiểm yếu như thế và cuộc nổi dậy, khởi nghĩa nào mà không tự chọn cho mình một chỗ được cho là hiểm yếu để sống còn?
Như chúng ta đã nói, một địa hình thiên nhiên, bản thân nó chẳng có gì là hiểm yếu, chỉ có nhận thức của con người về nó và hành động tạo dựng của con người đối với nó mới làm cho nó có hiểm yếu hay không. Hơn nữa, như Hồ Chí Minh nói “Thiên thời không bằng địa lợi, địa lợi không bằng nhân hòa”. Nếu không có nhân hòa thì thiên thời cũng trôi qua, địa lợi cũng câm nín. Vả lại, khi không còn bí mật nữa thì hiểm yếu đối với người cũng là hiểm yếu đối với ta, cuối cùng cũng chả lợi gì cho bên nào trong hai bên đang đấu tranh đối kháng hay nói đúng hơn, bên nào “biết” hơn thì địa hình trở nên có lợi cho bên đó hơn. Sự sống của động thực vật nước ngọt buổi khởi đầu, khó mà sống còn được trên một hòn đảo dù hiểm yếu cỡ nào nhưng nhỏ nhoi, lọt thỏm giữa vòng vây đại dương quanh năm sóng trào, nắng chan, bão dập nếu không biết cách nhanh chóng thích nghi. Không thích nghi được thì sự tồn tại của bản thân chúng cũng không thể duy trì được chứ nói gì đến sự phát triển.
Ấy vậy mà cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã làm được điều tưởng chừng như không thể. Trong một khu vực nhỏ hẹp, trước một lực lượng có lúc suy kiệt đến cùng cực, vẫn trụ lại được, đã là một sự quá ư tài tình, chưa nói đến là không những trụ vững, tồn tại được mà còn phát triển và ngày một lớn mạnh. Nói không ngoa tý nào, nếu nhìn nhận thật kỹ, chúng ta thấy hoạt động của nghĩa quân Lam Sơn thời kỳ ấy đã thực hiện được đến mức tối ưu những đòi hỏi về cơ động, uyển chuyển, biến hóa, kịp thời, hầu như không phạm sai lầm nào trong phán đoán, nhận định cũng như trong hành động thực tiễn. Có thể thấy ở đó cái cốt lõi của những trận đánh giành thắng lợi trong suốt thời kỳ lịch sử trước đó của dân tộc Việt. Có thể thấy ở đó hình bóng của binh pháp Tôn Tử, của “Binh thư yếu lược”. Có thể rút ra từ đó những nguyên lý cơ bản nhất của lý luận quân sự, về sự lựa chọn và giải quyết rốt ráo, phù hợp trong từng thời gian các mối quan hệ như: phân tán - tập trung, tiến công - phòng thủ, ít - nhiều, yếu - mạnh, rút lui bảo toàn - tiến công tạo thế, chính - kỳ, hư - thực …
Một đội quân nhỏ nhoi, mới dấy, còn trong thời kỳ trứng nước mà làm được ngay như vậy, hoặc rất nhanh chóng làm được như vậy thì chỉ có thể rằng: ngay từ đầu, nghĩa quân Lam Sơn đã có những vị chỉ huy tài giỏi, kinh qua trận mạc, nhuần nhuyễn quyền mưu và làu thông, thấu tỏ binh pháp. Bản thân Lê Lợi, với văn tài, võ lược mà theo truyền thuyết dân gian cũng như chính sử ghi chép đã “thổ lộ”, là ở mức độ chưa thể gọi là xuất chúng, không thể làm được điều đó. Chắc rằng trong thành phần lực lượng dấy binh thưở ban đầu của cuộc kháng chiến Lam Sơn đã có sẵn một số chỉ huy và binh lính đã từng đi theo và chiến đấu dưới ngọn cờ của những cuộc khởi nghĩa khác, sau khi những cuộc đó thất bại, đã theo về để đi tiếp con đường nghĩa dũng của đời mình. Nhưng như thế vẫn chưa đủ để làm nên một đội quân ưu tú; một đội quân mới từ trứng nở ra đã bị diều hâu xông đến đánh, phải nhanh chân trốn né, để rồi bất thình lình mai phục tại Lạc Thủy, đánh một đòn chí mạng, tiêu diệt đến 3000 địch quân; một đội quân tuy nhỏ nhưng đã biết tạo thế mạnh bằng cách “rủ” quần chúng và địa hình rừng núi theo mình đi đánh giặc, để rồi xuất kỳ bất ý tiến ra đột kích từ đó và rút lui, tan biến vào đó.
Để cho đầy đủ thì cần một mắt xích nữa và phải là mắt xích hợp thành cơ bản mà nếu thiết mắt xích đó thì có thể vẫn có cuộc dậy nghĩa Lam Sơn nhưng không phải cuộc dậy nghĩa Lam Sơn tiến đến toàn thắng như đã thấy trong lịch sử. Đó chính là nhân vật Nguyễn Trãi, Nguyễn Trãi là một nhân tài nhưng thiếu bản lãnh của người làm tướng. Trong khi đó, Lê Lợi đủ bản lĩnh và vật lực nhưng chưa đủ niềm tin để dựng cờ vì còn thiếu một “Bình Ngô sách”. Lê Lợi dựng cờ và ngọn cờ đó ngày một phất cao ngạo nghễ được là nhờ có cái gốc cứng vững trên nền tảng “đại nhân đại nghĩa” mà Nguyễn Trãi đã là người đề xướng và khởi công xây đắp nên. Trên cái nền tảng mang tính quần chúng cao độ ấy, tài năng các tướng nghĩa quân mới đủ điều kiện thỏa sức thi thố và mau chóng thăng hoa. Dũng khí binh sĩ cũng nhờ thế mà hừng hực dâng cao.
Nhưng cuối cùng, cái nguyên nhân duy nhất, nguyên nhân của mọi nguyên nhân là gì, là ngẫu nhiên hay tất yếu? Chúng ta nói thế này: đốm lửa nhỏ ở Lam Sơn, về hình thức thì cũng giống như những đốm lửa kháng chiến chống quân Minh khác, nhưng đồng thời về thực chất lại rất khác: dù cũng do con người nhóm lên nhưng được nuôi dưỡng nhờ khí thiêng sông núi tích tụ lại. Nó là đốm lửa linh được đúng người nhen nhúm, đúng vị trí và đúng lúc. Nhìn ở góc độ cụ thể về tên người, tên đất, tên tháng năm thì sự xuất hiện đốm lửa ấy là ngẫu nhiên, nhưng ở góc độ diễn tiến thời cuộc, quá trình lịch sử của một đất nước, truyền thống của một dân tộc, theo nguyên lý nhân quả, thì lại là tất yếu. Giản dị hơn, có thể nói đốm lửa Lam Sơn là hiện tượng tâm linh, vì thế nó thiêng liêng, mang nhiều yếu tố vượt ra ngoài khuôn khổ lý luận.
Để khỏi ngộ nhận, chúng ta nói thêm: Lê Lợi không phải là không tài giỏi, nhưng là cái tài giỏi của người nhạy cảm, biết được lưỡi gươm và chuôi gươm nhặt được là trời cho đến tay mình để lắp lại thành ra gươm báu, là cái tài biết dựa vào hội thề Lũng Nhai (nhưng khi đã nên nghiệp đế thì vội quên ngay lời thề ấy?!) dấy nghĩa cứu nước và đồng thời có được nghiệp đế.
Không thể nào so sánh thời Tam Quốc bên Tàu với thời nước ta bị nhà Minh đô hộ được, vì hoàn cảnh điều kiện cũng như thời đại và bản chất xã hội là khác nhau xa. Do đó, cuộc dấy nghĩa của Lưu Bị cũng hoàn toàn khác về bản chất so với cuộc dấy nghĩa của Lê Lợi. Tuy nhiên, một cách hình thức nhất, thô nhám nhất, chúng ta có thể lấy trường hợp Lưu Bị và sự hình thành nước Thục để làm rõ hơn điều chúng ta muốn bày tỏ.
Trước khi dựng cờ dấy nghĩa, Lưu Bị đã cùng hai danh tướng Quan Công và Trương Phi hội thề “kết nghĩa vườn đào”. Lưu Bị, nếu là kẻ bất tài thì làm sao chiêu dụ được hai danh tướng ấy và sau này thêm Triệu Tử Long, cũng là một danh tướng, qui phục và xả thân phò tá? Nhưng dù là có tài năng và có cả hai, ba danh tướng hết lòng với võ công thiên hạ thì phỏng làm nên được tích sự gì nếu không xuất hiện một Khổng Minh - Gia Cát Lượng mà phải ba lần đến lều cỏ, Lưu Bị mới cầu có được? Không có Gia Cát Lượng, sẽ không thể có trận Xích Bích lừng danh Kim Cổ, và như thế cũng sẽ không có một nước Thục trong cái thế tam phân chân vạc: Ngụy - Ngô - Thục
Có thể thấy ở Lê Lợi có những nét phảng phất của hình bóng Lưu Bị và ở Nguyễn Trãi có những nét phảng phất hình bóng Khổng Minh?!
Chúng ta thấy rằng: lịch sử nước nhà từ trước đến nay đều đặt tài năng Nguyễn Trãi ở tầm mức không đủ lời ca ngợi. Như lời nhận xét của Nguyễn Mộng Tuân, bạn Nguyễn Trãi: “Gió thanh hây hẩy gác vàng, người như một ông tiên ở trong tòa ngọc. Cái tài làm hay, làm đẹp cho nước, từ xưa chưa có bao giờ”; của Lê Quí Đôn: “Viết thư, thảo hịch tài giỏi hơn hết mọi thời”; hay của Phạn Huy Chú: “Văn chương mưu lược gắn liền với sự nghiệp kinh bang tế thế”. Trong “Kiến văn tiểu lục” (của Lê Quí Đôn, Quyển V - Tài phẩm), có đoạn:
“Nguyễn Vĩ, một người cháu ba đời của Nguyễn Trãi, xuất trình chế văn truy tặng cho ông tước Tế Văn Hầu, trong ấy có câu rằng “Long hổ phong vân chi hội, do tưởng tiền duyên, văn chương sự nghiệp chi truyền, vĩnh cùng hậu thế” (Rồng hổ gió mây tụ hội, còn ghi duyên tiền định, truyền tụng văn chương sự nghiệp, để mãi đời sau). Câu ấy đã tỏ ra ông là người có công lao đứng đầu về việc giúp rập vua, thì ngàn năm không thể mai một được”
Chính vua Lê là Nhân Tông, khi cùng các quan văn xem các di bản của Nguyễn Trãi, đã xúc động đánh giá: “Nguyễn Trãi là người trung thành giúp đức Thái Tổ dẹp giặc, giúp đức Thái Tổ sửa sang thái bình. Văn chương và đức nghiệp của Nguyễn Trãi, các danh thần của bản triều không ai sánh bằng”
Tóm lại, nói cho công bằng thì: Nguyễn Trãi đã đóng vai trò như linh hồn của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, là nhà tư tưởng và đồng thời là nhà chiến lược vạch đường mở lối cho cuộc khởi nghĩa đó đi đến toàn thắng. Không những thế, trên nền tảng tư tưởng nhân đạo, đứng về phía Đại Chúng đó, Nguyễn Trãi cũng có công lao to lớn, không trực tiếp thì cũng gián tiếp (thông qua Lê Lợi, được Lê Lợi tiếp thu, nắm bắt lấy để thực thi) đối với việc đề ra những quyết sách thích ứng trong thời kỳ đầu nhà Lê của công cuộc hàn gắn và xây dựng đất nước sau khi đập tan ách đô hộ của nhà Minh.
Ngay từ thời kỳ “vây thành diệt viện”, Lê Lợi - Nguyễn Trãi đã bắt tay vào việc khôi phục và xây dựng lại đất nước trên qui mô lớn, qui định các khu vực hành chính, tổ chức chính quyền từ cơ sở đến trung ương, kêu gọi nhân tài, tổ chức thi cử… Có thể rằng trên lĩnh vực này, đã xuất hiện những quan niệm khác nhau trong việc thực hiện các tư tưởng đại nhân đại nghĩa mà Nguyễn Trãi đã nêu ra trong thời kháng chiến gian khổ, làm cho mối quan hệ “long hổ phong vân chi hội” xơ tước dần và chờ dịp tắt hẳn, không thể nối kết lại được nữa.
Nguyễn Trãi đã ấp ủ một hoài bão quá lớn, tin tưởng một cách trong sáng (và ngây thơ?) rằng có thể thông qua Lê Lợi, “nhờ” Lê Lợi để thực hiện bước thứ hai của hoài bão đó, là xây dựng một nước yên vui thanh bình theo kiểu xã hội thời Nghiêu, Thuấn, trong khi Lê Lợi về cơ bản, đã đạt được hoài bão có từ thời nổi dậy dựng cờ của mình.
Tồn tại ngai vàng để làm cho dân giàu nước mạnh và làm cho dân giàu nước mạnh để ngai vàng tồn tại là hai vế không thể tách rời của một quá trình hợp tình hợp lý. Nhận thức được như thế là biện chứng. Nếu nhận thức thiên lệch về một vế nào thì đều làm cho quá trình đó phát triển sai lạc, dẫn đến bế tắc, khủng hoảng và thậm chí là đổ vỡ. Trình độ kinh tế - xã hội thời Nguyễn Trãi không cho phép trở về với xã hội Nghiêu - Thuấn và cũng chưa đủ để đến với xã hội kiểu xã hội Nghiêu - Thuấn (đối với thời đại ngày nay thì kiểu xã hội đó vẫn còn là một viễn cảnh quá xa vời!).
Nguyễn Trãi đã từng tâu với vua Lê Thái Tông: “Thần chuyên đọc điển phần, chỉ những muốn việc cổ nhân đã muốn. Để tâm dân chúng, mình trước lo điều thiên hạ phải lo”. Hình như đây cũng là lời trần tình đượm buồn của một người đã thất cơ, không còn cơ hội để thực hiện điều mình mơ ước cho dân cho nước. Hai con người đã gặp nhau vì cùng muốn cứu nước, cùng muốn xây dựng đất nước đẹp giàu, nhưng đã phải chia ly vì mục đích xây dựng đất nước đẹp giàu đã phân kỳ, người hướng về Đại Chúng, kẻ hướng tới ngai vàng.
Mơ ước về một xã hội đại đồng đã từng có ở thời tiền sử xa xưa, thời Nghiêu - Thuấn, là một giấc mơ đẹp của một tâm hồn đẹp. Không phải chỉ có Nguyễn Trãi mà không ít người và ngay từ thời cổ đại, nhiều nhà hiền triết “gạo cội” đã từng mơ giấc mơ đó. Họ không những mơ mà còn trăn trở đến bạc đầu để vạch ra cách thực hiện giấc mơ. Nhưng than ôi, đó là điều không tưởng!
Quá thiết tha với lý tưởng, cố tìm cơ hội để thực hiện hoài bão, sống theo quan niệm nhập thế của Nho Gia, cột trụ kiên cường, biết không làm được vẫn làm, đã tạo nên cái bi kịch trong tâm hồn Nguyễn Trãi, đã là nguyên nhân sâu xa nhất trong những nguyên nhân gây ra thảm kịch lớn nhất trong triều đại nhà Lê và cũng có thể là lớn nhất, đau thương nhất trong xã hội quân chủ chuyên chế Việt Nam. Thảm kịch đó mang tên: Vụ án Lệ Chi Viên (Vụ án vườn Lệ Chi).
Sau khi giành được độc lập cho đất nước, để “dĩ hòa” và cũng nằm trong sách lược ngoại giao mềm dẻo với nhà Minh, dù chỉ là danh nghĩa, Lê Lợi vẫn xin cầu phong cho con cháu họ Trần là Trần Cảo làm vua. Trần Cảo biết phận mình, chẳng có chút công lênh gì mà ngồi ngai vua, lòng áy náy không yên, bèn cưỡi thuyền ra biển, chạy về châu Ngọc Ma (Thanh Hóa). Quân của Lê Lợi đuổi kịp, dẫn về, bắt uống thuốc độc chết rồi làm tang lễ rất hậu theo nghi lễ một ông vua (thật khôi hài!).
Ngày 15 tháng 4 năm Mậu Thân (1428), Lê Lợi từ dinh Bồ Đề chuyển vào thành Đông Đô. Ngày 29 tháng đó, Lê Lợi chính thức lên ngôi hoàng đế tại điện Kính Thiên, khôi phục quốc hiệu Đại Việt, vẫn định đô ở Thăng Long - Đông Đô, tự xưng: “Thuận thiên thừa vận Duệ Vân Anh vũ đại vương”. (Năm 1430, Đông Đô được nhà Lê đổi tên gọi thành Đông Kinh).
Tại sao Lê Lợi không xưng đế mà chỉ xưng vương thôi? Người này thì cho rằng đó là do thực hiện sách lược ngoại giao mềm dẻo vì nhà Minh luôn đòi tìm lập con cháu nhà Trần và chỉ cho nhà Lê làm “quyền thủ An Nam quốc sự” mà thôi. Người khác cho rằng Lê Lợi là người có tính khiêm tốn. Chúng ta không đồng thuận với cả hai nhận định đó!
Nếu là vì ngoại giao thì ở trường hợp đưa Trần Cảo lên ngôi vua (hờ) còn tin được. Nhưng tại sao lại phải giết Trần Cảo, khi chẳng được ích lợi gì mà không chừng chỉ có hại? Trần Cảo chết thì thiếu gì con cháu họ Trần khác, có thể tìm ra trong “tích tắc” để tiếp tục đưa lên làm vua “hờ”? “An Nam” hay “Giao Chỉ” là do phong kiến phương Bắc gọi nước ta, nhưng các triều vua nước ta chưa bao giờ nhận, ngay Lê Lợi cũng dùng lại quốc hiệu là Đại Việt, thì “sợ” gì mà không xưng đế? Ngoại giao mềm dẻo không có nghĩa là nhẫn nhục, khuất phục! Nhưng nếu không phải là do ngoại giao thì có phải là do Lê Lợi có đức tính khiêm nhường không? Đã ở cái vị thế “con trời” rồi thì khoảng cách giữa đế với vương là bao xa, hay nếu có chỉ là hình thức? Trong số 18 con người ở hội thề Lũng Nhai và những người tâm phúc theo Lê Lợi từ thuở còn hàn vi, còn thuộc tầng lớp địa chủ nhỏ ở vùng thượng du, học hành tiếp thu kiến thức cũng tại đó, có bao nhiêu con người tài năng xuất chúng và trong số đó bao nhiêu người còn sống khi đất nước thanh bình, chứng kiến Lê Lợi lên ngôi? Đây là lời phân trần của chính Lê Lợi: “Những vị vua có công đức lớn như các vua Vũ, Thang, Văn… Thời tam đại, mà cũng chỉ xưng vương thôi, huống chi trẫm tài đức mỏng manh, đâu dám nói đến hiệu hoàng đế. Nay chỉ xưng tước vương cũng đã làm quá rồi”. Chúng ta nhớ lại, ngay từ lúc mới dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, Lê Lợi lúc đó “tệ” hơn nhiều, vẫn “dám” xưng vương (Bình Định Vương) mà? Vậy thì thế nào mới gọi là khiêm nhượng? Trong nhiều trường hợp, quá khiêm tốn chỉ là một sự đóng kịch, cố che dấu cái hành vi biểu lộ sự thèm khát danh lợi trong sâu thẳm cõi lòng mình, trước những người mà mình đã từng cùng “nằm gai nếm mật”. Lê Lợi có thuộc hạng người này không? Chúng ta không dám chắc, nhưng chắc rằng Lê Lợi tuy không phải là người có bản chất bất nghĩa, vô nhân nhưng cũng không đến độ là người đã thấu tỏ được ngọn ngành ý nghĩa của “đại nhân, đại nghĩa” như Nguyễn Trãi đã thấu tỏ. Có lẽ Lê Lợi đã học thuộc tư tưởng của Nguyễn Trãi, tưởng biết hết mà thực ra chưa biết hết (vì chưa đủ mức uyên thâm về học vấn) nghĩa sâu của khái niệm ấy. Biết nói thế nào nhỉ?!...
Dù sao thì Lê Lợi cũng đã giải quyết được những công việc bề bộn của một đất nước vừa mới trải qua chiến tranh giành độc lập. Công lao của Lê Lợi đối với đất nước là có thật và đáng được tôn vinh.
Cũng như phần lớn những ông vua lận đận gian nan gầy dựng, khai mở vương triều từ hàn vi cơ cực, Lê Lợi vẫn giữ được những đức tính tốt đẹp do từng trải mà có, phần nhân tính trong ông vẫn còn lấn át được, kiềm tỏa được phần thú tính. Tuy nhiên sự lấn át và kiềm chế ấy cũng chỉ đạt đến mức độ nào đấy tương đối mà thôi vì 6 năm trị vì ngắn ngủi của Lê Lợi đã thể hiện ra như vậy. Trong 6 năm ấy, Lê Lợi đã làm nhiều điều đúng nhưng cũng có nhiều điều sai, làm nên công và đồng thời cũng làm nên tội. Cái biểu hiện rõ rệt nhất về tài năng, đức độ hạn chế của Lê Lợi chính là ông đã không đủ sáng suốt để tránh được vết xe đổ dứt bỏ, bức hại trung thần khi đã có được vương triều, còn in dấu sâu đậm trong tích sử Trung Hoa.
Nhu cầu tự nhiên của con người, ai cũng vậy, là ăn và mặc. Đói ăn đói mặc thì thèm khát, đó là bản năng. Trải nghiệm đói khát và những điều khủng khiếp do nạn đói khát gây ra lặp đi lặp lại trong quá trình sống của loài người đã ngấm vào máu, vào xương tủy con người làm cho bản năng thèm khát đó nâng lên đến bình diện cao hơn: thèm có của ăn của để, thèm được ăn ngon mặc đẹp, thèm được giàu có… nghĩa là không bao giờ hết thèm khát, “được voi thì đòi tiên”. Trong xã hội, nói chung, ai cũng có sự thèm khát ấy. Nhưng không phải chỉ thèm khát là có ngay được những thứ làm thỏa sự thèm khát. Sản vật thiên nhiên là có hạn độ, sức người cũng có hạn độ nhưng lòng ham muốn thì lại vô hạn độ. Vì vậy muốn có được cái mình thèm khát trong một xã hội ai cũng thèm khát thì phải phấn đấu, phải mưu cầu bằng cách nào đó. Cái mà thèm khát hướng đến đó, chính là “danh lợi”. Nhưng “danh lợi” thì ít mà sự hướng tới thì nhiều, nên muốn chiếm hữu được “danh lợi”, trước tiên phải có được trong tay cái công cụ gọi là “quyền lực”. Do đó tranh quyền đoạt lực là hiện tượng phổ biến, xảy ra thường xuyên trong mọi chế độ chuyên chế. Những cuộc “Long tranh hổ đấu” đó lẽ đương nhiên đòi hỏi những kẻ tham gia phải có tài năng, biết vận dụng quyền mưu. Muốn thế, chỉ có cách duy nhất là học hỏi (năng khiếu hay thiên tài cũng phải học nhưng học nhanh hơn người khác; có được khả năng ấy là vì đã được truyền lại bằng con đường huyết thống từ sở học, ước vọng đã nung nấu của tổ tiên, ông cha…). Cho nên mới có câu đúc kết như một nguyên tắc quá trình mưu cầu danh lợi, lưu truyền đến ngày nay: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.
Sự tìm kiếm và lựa chọn cách thức để mưu cầu danh lợi, cũng như quá trình tranh giành quyền lực và danh lợi đã là cội nguồn nảy sinh ra các quan niệm thị phi, là đầu mối làm xuất hiện những cặp khái niệm như: thiện - ác, chính nghĩa - phi nghĩa, ngay thẳng - gian tà, quân tử - tiểu nhân…
Trong chế độ quân chủ chuyên chế, cái đích tuyệt cùng của mưu cầu danh lợi là ngai vàng. Kẻ ngồi trên ngai vàng được gọi là vua. Vua là tượng trưng cho quyền lực cao nhất trong chế độ quân chủ và trên thực tế, ông vua nào cũng cố gắng tạo cho được một quyền lực mạnh nhất để giữ vững ngai vàng trước đám hoàng thân quốc thích và quần thần luôn tiềm tàng sự thèm khát (trong đó thiếu gì những “đứa” thèm khát đến độ ngấm ngầm không coi vua ra gì và nếu có cơ hội là ngay lập tức dở trò thoán nghịch hay nói trắng ra là cướp ngôi!). Tuy nhiên, vua lại không thể tập trung được tuyệt đối quyền lực và lúc nào cũng trực tiếp nắm được quyền lực. Về hình thức có thể thấy quyền lực nhà vua là tập trung nhưng trên thực tế nó bị phân chia ở mức độ nào đó và được gọi là quyền lực của triều đình. Chính vì thế mà các ông vua thường đa nghi, giật mình, luôn dỏng tai, thích nghe ngóng và dễ nổi cơn chém giết bề tôi; chính vì thế mới có lũ nịnh thần cố gần vua để hưởng mưa móc, xây dựng quyền lực cá nhân bằng những thủ đoạn hèn hạ và để che đậy điều ấy thì phải xiểm hại những người trung nghĩa, những khai quốc công thần và cả lẫn nhau nữa.
Ngoài nguyên nhân nói trên thì nguyên nhân chính chủ yếu của quyền lực triều đình là để bảo vệ đặc quyền đặc lợi của tầng lớp thống trị thượng tầng, để cai trị bóc lột xã hội và để đàn áp sự nổi dậy của quần chúng khi mà ước mơ của họ, loại ước mơ bao giờ cũng là tầm thường nhất trong xã hội, ước mơ có đủ cơm ăn áo mặc, cũng không thực hiện được.
Những điều trình bày trên đã cắt nghĩa vì sao nói Lê Thái Tổ không tránh được vết xe đổ khi cái mục đích lớn nhất của đời ông đã thành, chỉ phải lo sao cho ngai vàng không còn kẻ dòm ngó và bền vững đến đời con cháu. Chẳng xa xôi gì, sự kiện Hồ Quý Ly cướp ngôi vua Trần, xóa bỏ nhà Trần còn sờ sờ ra đó, không thể không ám ảnh ông.
Để sáng tỏ hơn, chúng ta sẽ kể một câu chuyện đã xảy ra ở thời Trung Hoa cổ đại, trở thành điển hình của hiện tượng có tính lặp lại lạ lùng, mà thành văn là: “Hết chim, cất cung tên; thỏ chết, thịt chó săn”
Thời Xuân Thu, vua nước Việt là Câu Tiễn bị vua nước Ngô là Phù Sai đánh bại ở Cối Kê. Nhờ mưu của Phạm Lãi, Văn Chủng mà thoát nạn, nước không mất. Sau một thời gian gom người tích của, xây dựng lại lực lượng, Việt vương Câu Tiễn tiến đánh, diệt được nước Ngô. Trong bữa tiệc mừng công, ai nấy đều vui mừng náo nức, công thần khanh tướng hết sức hồ hởi chúc tụng nhau, tiếng hoan hô vang trời. Trong bữa tiệc đó, Việt vương Câu Tiễn đáng lẽ là người sung sướng nhất mới phải. Ấy vậy mà Phạm Lãi lại thấy mặt của Câu Tiễn có vẻ miễn cưỡng, thoáng nét không vui, liền nghĩ ngay rằng công thành nghiệp trọn, khiến ai cũng phấn khởi, thế mà quốc vương lại có vẻ không vui, chắc không ngoài việc lo nghĩ về chuyện chia phần công lao. Xem ra, cùng chung hoạn nạn thì dễ mà cùng hưởng an lạc thì khó. Vì vậy, dù đang là Thượng tướng quân, công lao to lớn (cùng Câu Tiễn nằm gai nếm mật, mưu toan hơn 20 năm, giúp Câu Tiễn lập nên nghiệm bá). Phạm Lãi vẫn viết thư từ biệt Câu Tiễn:
- Thần nghe: “Vua lo thì tôi phải khó nhọc, vua nhục thì tôi phải chết!”. Hồi xưa, nhà vua chịu nhục ở Cối Kê, thần sở dĩ chưa chết là còn phải báo thù. Nay đã rửa được nhục, thần xin chết theo tội ở Cối Kê!”
Câu Tiễn nói:
- Ta đương sắp chia nước này cùng cai trị với nhà ngươi. Không nỡ lại giết nhà ngươi?...
Phạm Lãi nói:
- Nay nước Ngô đã bị diệt, vậy thần mong đại vương tha cho tội xưa để thần được về chốn giang hồ sống nốt những ngày cuối đời, thần vô cùng biết ơn công đức của đại vương.
Câu Tiễn cố giữ, nhưng Phạn Lãi đã quyết, soạn gói châu ngọc và các của cải mang vác được, dong thuyền ra biển sang Tề.
Phạm Lãi gửi thư về cho đại phu Văn Chủng, nói: “Chim đã hết thì cung tốt phải cất, thỏ khôn đã chết thì chó săn bị nấu. Vua Việt là người cổ dài, miệng diều hâu, có thể cùng lo lúc hoạn nạn, nhưng không thể cùng vui sướng với ông ta. Sao ông lại không bỏ đi?”
Chủng nhận được thư, cáo bệnh không vào chầu. Có kẻ gièm pha, nói:
- Chủng sắp làm phản.
Việt vương Câu Tiễn bèn sai đưa kiếm cho Chủng và nói:
- Nhà ngươi dạy quả nhân bảy thuật để đánh Ngô. Quả nhân mới dùng có ba mà nước Ngô đã thua. Còn bốn thuật nữa ở nhà ngươi. Nhà ngươi hãy giúp ta dùng những thuật ấy với tiên vương xem sao.
Chủng bèn tự sát. Tâm địa Việt vương thật tàn nhẫn!
Đến Tề, Phạm Lãi đổi họ tên, cày ruộng ở bờ biển, khổ thân cố sức, cha con cùng lo làm ăn, không bao lâu thì giàu có. Người nước Tề biết ông là người hiền, mời ra làm Tướng quốc. Phạm Lãi ngậm ngùi than:
- Ở nhà thì có hàng ngàn lượng vàng, làm quan thì đến công, khanh, tướng quốc, kẻ áo vải được thế là tột bậc rồi, giữ mãi cái tiếng tăm lừng lẫy là không tốt!.
Bèn trả ấn Tướng quốc, đem tất cả tài sản cho bạn bè, làng xóm. Chỉ mang những của thật quý, lẻn đi. Phạm Lãi dừng lại ở đất Đào, cho nơi đó là ở giữa thiên hạ, tiện đường buôn bán, rồi lại nhanh chóng giàu có, thường cứu giúp mọi người. Ông chết già tại đất Đào, được đời truyền tụng, gọi là Đào Chu Công.
***

Với 6 năm trị vì, thành tựu xây dựng và phát triển kinh tế đất nước của Lê Thái Tổ không nhiều. Nhìn chung, Lê Thái Tổ cũng chỉ làm những công việc cần làm đối với một đất nước sau chiến tranh và đối với một nhà nước quân chủ còn non trẻ như thiết lập và xây dựng bộ máy chính quyền, phân định lại quyền sở hữu đất đai, tìm biện pháp phát triển sản xuất nông nghiệp, kích thích công thương nghiệp tăng trưởng…. Với nhiều chủ trương tương tự, kế thừa của thời Lý - Trần, thiếu đặc sắc, nhưng phần nào cũng đáp ứng được yêu cầu của xã hội đương thời.
Nói cách khác, sau khi lên ngôi, Lê Lợi đã phải “thức khuya, dậy sớm” (Bia Vĩnh Lăng) lo toan việc nước, tổ chức bộ máy cai trị, củng cố quyền lực, ban bố luật lệ về hành chính, kinh tế, xét miễn thuế ruộng, bãi dâu, ao đầm trong hai năm, miễn thuế hoặc giảm thuế cho những vùng bị chiến tranh tàn phá nặng nề, tiến hành điều tra ruộng đất và dân số, ban hành chính sách quân điền, đề ra chính sách khẩn hoang, lập đồn điền, phát tiền mới, lập trường học, mở khoa thi… Bên cạnh đó, Lê Lợi rất chú trọng đến việc xét thưởng công lao những người tham gia kháng chiến, thu dụng hiền tài. Trong 2 năm 1428 - 1429 đã tổ chức 3 đợt bình công, ban phong chức tước. trong 6 năm trị vì đã ban chiếu cầu mời hiền tài 6 lần. Lê Lợi nói: “Nay Trẫm giữ trách nhiệm nặng nề sớm khuya kinh sợ, như gần vực sâu, chỉ vì tìm hiền tài giúp trị mà chưa được người”. Ông cũng từng nói: “Trẫm nghĩ: chống lại kẻ thù của vua phải nhờ có tài đánh dẹp, giữ cán cân của nước, nên ủy cho người cũ có công”. Đó là những câu tha thiết, chân thành. Lê Lợi còn nhiều câu nói như thế nữa trong các chiếu chỉ của ông, phần lớn là do Nguyễn Trãi soạn thảo chẳng hạn như những câu dưới đây:
“Ai thấy trẫm có chỉ lệch hà khắc, thuế má nặng nề, hại cho lương dân, thưởng công phạt tội không đúng… hoặc các đại thần, quan lại, tướng hiệu, các chức trong ngoài có người nào không giữ phép, hối lộ, nhiễu hại lương dân, làm việc thiên tư vị phi thì há tâu lên ngay”; “Nếu thấy điều lệnh của trẫm hoặc có điều gì không tiện cho việc quân, việc nước, hoặc là việc vô cớ, hoặc thuế má nặng nề… được tâu xin sửa lại”; “lấy mối lo của dân chúng làm mối lo của mình”.
Và câu nói này của Lê Lợi đọng lại trong tâm khảm của chúng ta rất lâu: “Chuộng nhà cửa cung đài cao đẹp, tất gây nên thói kiêu sa, theo ý mình mà trái lòng người, sẽ chuốc lấy mọi người oán ghét. Trẫm rất lo về điểm này, cho nên tự nghĩ những cung điện huy hoàng tráng lệ đây đều là sức lao động của quân dân, trẫm được ngự yên, vẫn cứ lo không xứng”.
Một vị vua nói được những lời tâm huyết như thế, nghe ra, ai mà không cho đó là một vị vua hiền. Tuy nhiên, trong câu nói được chúng ta ghi lại vừa rồi của Lê Lợi, hình như có cái gì đó nhờn nhợn, gợi nhớ về trường hợp của Nghiêm Tử Lăng: đã quyết đi ở ẩn rồi thì hà cớ gì phải mặc áo trái để người đời chú ý thấy.
Có một sự thực lịch sử không thể phủ nhận được là: dưới triều Lê Thái Tổ, chỉ trong khoảng một, ba năm sau khi ông lên ngôi, đã có nhiều công thần tướng lĩnh bị truất chức, hạ ngục, bị giết, bị bức tử, mà điển hình là trường hợp Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo và Nguyễn Trãi.
Đánh giá về thời gian trị vì của Lê Lợi, vào thế kỷ XIX, sử thần triều Nguyễn trong “Việt sử thông giám cương mục”, viết rằng Lê Lợi “kịp khi lên ngôi, qui định thuế khóa, chia cắt ruộng đất, ban hành luật lệ, mở khoa thi, tổ chức cấm vệ, cắt đặt quan chức, tưởng lục công thần, dựng trường học… Qui mô sáng nghiệp có thể gọi là rộng lớn, nhưng hay nghi kỵ, đa sát, đó là chỗ kém của nhà vua”.
Sự đánh giá ấy được cho là gần như san định lại từ ghi chép của văn sử nhà Lê. Một quan chép sử chép về triều đại mình đang phục vụ, muốn khách quan đến mấy cũng không thể không thiên vị. Ấy vậy mà sử thần nhà Lê, từ Ngô Sĩ Liên đến Lê Hy, trong “Đại Việt sử ký toàn thư” cũng phải nhận định về Lê Lợi như sau: “Thái Tổ từ khi lên ngôi đến nay, thi thố chính trị có vẻ khả quan, như định luật lệnh, chế lễ nhạc, mở khoa thi, đặt cấm vệ, đặt quan chức, lập phủ huyện, thu sách vở, dựng học hiệu, cũng có thể gọi là qui mô sáng nghiệp rộng rãi, song đa nghi, hay giết, đó là chỗ kém”.
Hiền, giống ngu nhưng không phải là ngu mà là nhân nghĩa. Người biết nhân nghĩa thì không thể ác được. Một ông vua có lòng nhân nghĩa thì sao lại đa nghi, chém giết đối với ngay cả những công thần đã từng cùng mình chiến đấu hy sinh trong những ngày gian khổ?
Chưa đầy hai năm lên ngôi mà đã hành động như thế, thì đó là tội lỗi và không thể biện minh được. Và để giải thích cái động cơ dẫn đến hành động tội lỗi ấy của Lê Lợi, chỉ cần nhớ về cách hành xử của Việt vương trong điển tích mà chúng ta đã kể ở trên.
Giết Trần Cảo đã là một việc mờ ám, có thể gây ra phản cảm trong người này người kia và Lê Lợi đã chột dạ chăng?
Trước đây, trong kháng chiến, Lê Lợi đã tổ chức nhiều đợt phong thưởng cho các tướng sĩ lập được công trạng trong chiến đấu nhằm kịp thời khích lệ ba quân. Sau khi giải phóng hoàn toàn đất nước và lên ngôi vua, Lê Lợi đã tổ chức cuộc bình xét công lao, ban thưởng, phong chức tước với một qui mô lớn, như là sự tổng kết chiến tranh, đầy đủ và toàn diện chia làm ba đợt, kéo dài từ tháng 2 năm Mậu Thân (1428) cho đến tháng 5 năm Kỷ Dậu (1429). Trong cuộc bình xét này, Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo đều được xếp ở hàng đệ nhất công thần, đều được ban họ vua.
Nguyễn Trãi, thời kháng chiến, khi Lê Lợi tự xưng là Bình Định Vương, đã được bổ nhiệm vào chức: Tuyên Phụng đại phu, thừa chỉ học sĩ, coi việc “hội mật”, tham dự các buổi bàn kế hoạch quân sự và chính trị, soạn thảo những văn kiện quan trọng về nội chính, cũng như về ngoại giao. Đến khi bình công, ông được phong chức Quan phục hầu, giữ chức Nhập Nội hành khiển (chức quan văn, đứng sau Tể tướng) lại bộ thượng thư kiêm Quản công khu mật viện. Trần Nguyên Hãn, thì nhà bác học Lê Quí Đôn thuộc thế kỷ thứ XVIII, ghi trong phần liệt truyện của “Đại Việt thống sử” là: “Năm Mậu Thân, Thuận Thiên thứ nhất, (vua Thái Tổ) phong ông làm Tả tướng quốc và cho theo họ vua”. Còn Phạm Văn Xảo, cũng theo Lê Quí Đôn, thì “Tháng 3 năm Mậu Thân (1428), Thuận Thiên thứ nhất, thăng ông lên chức Thái Bảo, ban cho họ vua. Tháng 5 năm thứ hai, Kỷ Dậu, khắc biểu ghi tên công thần, ông được phong là Huyện Thượng Hầu, tên ông xếp vào hàng thứ ba, thăng là Thái phó”.
Ba bề tôi cùng Lê Lợi mở nước, đến đây, công lao to lớn của họ đã được tôn vinh, tưởng thưởng xứng đáng và danh tiếng họ cũng đã vang lừng thiên hạ, được dân chúng đương thời rất trọng vọng. Công danh đến cỡ đó, có lẽ đã tột bậc đối với người áo vải rồi!
Công đã thành, danh đã toại, tưởng rằng từ nay vua tôi cứ thế mà cùng nhau thong dong an hưởng, ai ngờ đó chỉ là một giấc mơ khoảnh khắc, phù phiếm. Trong chốc lát, tai họa bỗng đâu giáng thẳng xuống đầu ba con người đang mãn nguyện ấy làm hai người mất mạng, một người lúc ấy tuy may được toàn mạng nhưng vô cùng ê chề, lại tiếp tục lạc vào vòng xoáy của những mưu mô đấu đá vương triều để rồi chuốc lấy thêm một đại họa vô cùng oan khốc.
Chính Lão Tử, nhà hiền triết vĩ đại, là người ngay từ thời cổ đại trên cơ sở lý luận về tính qui căn, phản phục của sự vật - hiện tượng trong triết thuyết gọi là Đạo do ông sáng tạo ra, và cũng là đúc kết rút ra được từ “bãi chiến trường” đẫm máu tranh giành danh lợi thời Xuân Thu và cả thời trước đó, đã để lại cho đời sau nhiều lời khuyên dạy chí lý về ứng đời xử thế. Chúng đã trở thành những danh ngôn, châm ngôn phổ biến trong xã hội. Có lẽ rằng hầu hết mọi người đã từng ít nhất một lần đọc qua chúng và đều cho là đúng đắn. Thế nhưng thật hiếm người thực hành được những châm ngôn ấy. Không biết có phải là do sự tham muốn, thèm khát trong con người đã thành bản năng lý tính không?
Lão Tử có thể là người đầu tiên khuyên người ta tri túc: “Biết thế nào là đủ thì không nhục, biết lúc nào nên ngừng thì không nguy.” (Tri túc bất nhục, tri chỉ bất đãi); “Họa không gì lớn bằng không biết thế nào là đủ, hại không gì cho bằng tham muốn cho được nhiều” (Họa mạc đại ư bất tri túc, cữu mạc đại ư nhục đắc). Và thành ngữ “Công thành thân thoái” có thể cũng xuất phát từ ông: “Vàng ngọc đầy nhà, làm sao giữ nổi. Giàu sang mà kiêu là tự rước lấy họa. Công thành rồi thì nên lui về, đó là đạo trời.” (Kim ngọc mãn đường, mạc chi năng thủ. Phú quí nhi kiêu, tự di kì cữu. Công thành thân thoái, thiên chi đạo.)
Trần Nguyên Hãn là người ngay từ đầu đã cảm nhận được bóng ma Việt vương Câu Tiễn trong con người Lê Thái Tổ. Theo ghi chép của Lê Quí Đôn ở phần liệt truyện trong “Đại Việt thống sử” vào thế kỷ XVIII thì ông nói riêng với người thân: “Nhà vua có tướng như Việt Vương, không thể cùng sung sướng được”, và ông đã hành động theo Phạm Lãi: xin về hưu. Nhà vua bằng lòng nhưng qui định mỗi năm phải hai lần về chầu. Ông về làm nhiều nhà cửa, xây dựng gạch hoa, đóng thuyền chở binh khí. Có người tố cáo ông là mưu phản. Vua bèn sai lực sĩ xá nhân bắt về hỏi tội. Trên thuyền, ông phẫn uất khấn trời rằng: “Tôi với vua cùng mưu cứu dân. Nay việc nghĩa lớn đã thành, vua lại muốn giết tôi. Hoàng Thiên có biết xin soi xét cho”, rồi tự sát.
Trần Nguyên Hãn đã phát hiện được cái điều mà Phạm Lãi đã phát hiện, đã làm theo như Phạm Lãi đã làm, nhưng không triệt để, vẫn còn vương lụy hai chữ “công danh”, cho nên “giàu sang mà kiêu là tự rước lấy họa”.
Trường hợp Phạm Văn Xảo cũng tương tự như trường hợp của đại phu Văn Chủng, chẳng bao lâu sau ngày được ban phong chức tước rình rang, có người tố cáo ông ngầm mưu phản, vua “ban cho được chết”
Trường hợp Nguyễn Trãi bị hạ ngục thì chính sử nhà Lê và sử các thời sau không ghi. Nhưng sự kiện đó là có thật và sự mắc vạ của hai người kia đã là duyên cớ trực tiếp dẫn đến hệ lụy. Có nhiều căn cứ xác đáng để các nhà sử học ngày nay nhất trí về việc Nguyễn Trãi đã bị hạ ngục một thời gian dưới triều Lê Thái Tổ. Một trong số đó là trong “Biểu tạ ân” của Nguyễn Trãi dâng lên Lê Thái Tông sau này, có câu: “Nếu không được tiên đế (chỉ Thái Tổ) xét rõ đáy lòng, thì hầu khiến tiểu thần ngậm cười dưới đất”. Nhiều khả năng bài thơ sau đây của Nguyễn Trãi đã được cảm tác về thời gian ấy:
“Cuộc đời chìm nổi mấy mươi năm
Núi cũ khe xưa ước đã lầm
Danh giá bỗng mang vòng họa thực
Lòng ngay khôn gỡ miệng quân phàm
\
Tự văn chưa mất lòng còn đoái
Định mệnh thôi đành chết cũng cam
Khó gửi nửa lời lên bệ ngọc
Tỏ lòng oan tủi buổi tù giam”

Cụ thể, tội mưu phản của Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo là gì? Sử cũ cũng không ghi, chỉ bàn luận, nhận định là nhiều. Nhờ ghi chép của Lê Quí Đôn trong “Đại Việt thông sử” mà chúng ta biết thêm rằng trong lời chiếu của Lê Lợi ngày mồng 3 tháng 3 âm lịch năm 1432 (dạng văn hơi bị thô!), sau khi dẹp xong hai cuộc nổi loạn của tù trưởng Đèo Cát Hãn và Khắc Thiệu ở miền núi, có đoạn: “Trẫm xét: kẻ loạn thần tặc tử thì ai ai cũng muốn giết chết. Năm ngoái thắng Khắc Thiệu ở Thái Nguyên mưu làm phản, đích là do thắng Hãn âm mưu. Năm nay Cát Hãn nổi loạn là do âm mưu của Xảo. Mầm mống họa hoạn không thể không triệt cho hết”.
Về nguyên nhân dẫn đến thảm sát ấy, nhận định của Lê Quí Đôn là xác đáng. Theo ông thì bấy giờ vua thường đau yếu, con còn nhỏ, mà Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo là những khai quốc công thần, người là con cháu tông tộc nhà Trần, người là kẻ kinh lộ. Vua sợ khi con nhỏ lên ngôi, bọn họ cậy quyền ỷ thế sinh lòng khác, nên bề ngoài lấy lễ ý tôn sùng trọng vọng mà bụng vẫn nghi ngờ, lại bị bọn nịnh thần Lê Quốc Khí, Định Bang Bảng… đón biết ý vua, tranh nhau dâng mật sớ, khuyên vua quyết trừ đi.
Vì là con cô con cậu nên khi Nguyễn Trãi là cháu ngoại thì Trần Nguyên Hãn là cháu nội của Trần Nguyên Đàm, một đại phu thời nhà Trần giữ chức vị tương đương với Tể tướng đồng thời là cháu bốn đời của Chiêu Minh Đại Vương Trần Quang Khải. Trong khi đó, Nguyễn Trãi có một người vợ (Hà Sơn Bình cũ), không biết có họ hàng gì với Phạm Văn Xảo không. Nếu có thì ba người tài năng xuất chúng ấy là chỗ thân bằng quyến thuộc và nếu họ thông đồng hợp sức lại thì đó là một lực lượng cực kỳ đáng sợ. Có thể đoán thêm rằng Lê Lợi đã hình dung ra điều ấy và cộng thêm sự xiểm tấu của đám nịnh thần mà ông đã trở nên hốt hoảng thực sự, vội ra tay diệt trừ.
Cũng theo nhận định của Lê Quí Đôn thì: “Vua Thái Tổ hối hận, thương hại người bị oan: Lại biết bọn Lê Quốc Khí đều là hạng tiểu nhân xảo quyệt nên rất ghét chúng. Về sau bọn chúng đều có việc bị đuổi, nhà vua xuống chiếu bảo cho các quan rằng: bọn Lê Quốc Khí, Trịnh Hoàng Bá, Lê Đức Dư dầu là có tài cũng không được dùng lại nữa, mà trong thiên hạ có kẻ mưu phản cần phải tố cáo cũng không cho bọn ấy được tố cáo”.
Lê Lợi có hối hận không? Trách nhiệm của đám nịnh thần tới đâu mà sao xử “nhẹ hều” thế ? Hay lại cũng cái kiểu Lưu Bị quẳng con để lấy lòng tướng? Điều này là chắc chắn: Lê Lợi đã yên lòng vì hai “mầm họa lớn” đã bị triệt và xong việc rồi thì không thèm “chơi” với cái đám nịnh thần mà ông khinh ghét, biết tỏng chúng cũng chẳng vừa gì. Trong dịp này, ông quan văn “hiền khô” Nguyễn Trãi, người có lẽ là duy nhất mà Lê Lợi trong sâu thẳm đáy lòng vẫn còn cảm phục về tài năng lẫn nhân cách, được trả tự do. Màn kịch vừa bi, vừa hài, vừa lạ lùng đã từ từ khép lại.
Có thể thấy được cái mâu thuẫn nội tâm gay gắt ở Lê Thái Tổ qua lời dặn dò con là Nguyên Long trong chiếu truyền ngôi khi ông mất (Thái Tổ mất ngày 22 tháng 8 năm Quí Sửu, tức năm 1433).
“Trẫm gặp thời tao loạn, dựng nghiệp gian nan, hơn hai mươi năm mới nên nghiệp lớn, những nỗi đau khổ của nhân dân, thảy đều hiểu hết, những đường gian nan trong thế sự, thảy đều trải qua, thế mà đến khi lên ngôi, lòng người thực hay giả, cũng chưa dễ gì tỏ tường, những việc nghi ngờ, cũng chưa dễ gì phán đoán. Như vậy đạo làm vua không khó ư? Huống chi con, đương thời tuổi trẻ, nối nghiệp gian nan, nghe biết càng nông, tư lường chưa thấu. Vậy nên dốc lòng kính cẩn, như giẫm trên băng mỏng vực sâu, thờ trời đất nên hết lòng, cung phụng tôn miếu nên tròn đạo hiếu, thân ái anh em, hòa mục tông tộc, cho tới việc đối xử trăm quan và muôn dân, thảy đều nên nghĩ sao cho phải đạo. Chớ đổi phép cũ của tiên vương, chớ bỏ cách ngôn của tiên triết, chớ gần thanh sắc mà chuộng tiền tài, chớ thích đi săn mà ham dâm đãng, chớ nghe lời gièm mà xa người can thẳng, chớ dùng tân tiến mà bỏ cựu thần…”
Vì ngai vàng và trong nỗi lo sợ mất nó, Thái Tổ đã làm tất cả có thể: giết vua Trần Cảo (dù là vua hờ); thực hiện chiêu “hết chim, cất cung tên”, nghĩa là ban cho những quý tộc, tôn thất, người tài có công trong kháng chiến tước cao lộc hậu rồi phần lớn cho về “yên hưởng luân thường” chỉ rất ít được ở lại tiếp tục tham gia triều chính; thực hiện chiêu “thỏ chết, thịt chó săn”, nghĩa là trừ khử những kẻ tỏ ra cậy công, nghênh ngang coi thường thiên tử, dễ gây mầm phản loạn; bỏ con trưởng lập con thứ… Dù có nêu ra đủ lý do, đủ duyên cớ thì Thái Tổ cũng không thể biện minh được cái ích kỷ đến mù quáng trong việc bức hại, truy sát các công thần của mình. Dù Thái Tổ không phải là con người có bản chất bất nghĩa, vô nhân, nhưng những hành xử đó của ông là bất nhân bất nghĩa, không thể gọi khác đi được.
Sự đam mê danh lợi trong mỗi con người, một khi đã như con ngựa chứng, lồng lên bứt đứt dây cương chế ngự của Đức Huyền Diệu, sẽ gây ra những tai nạn ghê gớm thật không biết đến đâu mà lường!
Khi dấy nghĩa và dẫn dắt cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đi đến thắng lợi rực rỡ, Thái Tổ là Lê Lợi, vị lãnh tụ quả cảm, được các chiến hữu trong hội thề Lũng Nhai hết lòng tin theo, xả thân phò tá vì đại nghĩa. Lúc đó, ông xứng đáng được tôn vinh là anh hùng cứu nước của Dân tộc. Khi ngồi trên ngôi báu, có cả giang sơn, Lê Lợi là Thái Tổ, một ông vua vị kỷ đến mức giũ bỏ tình xưa nghĩa cũ, nghi kỵ đến mức độc địa hôn quân, để rồi khi đã được yên lòng, hả dạ thì lại bỗng thấy hụt hẫng, cô đơn, u uẩn trong cảnh đời xa vắng. Chính lúc này đây, Thái Tổ không còn là Thái Tổ đắm đuối ngai vàng nữa, cũng không phải là Lê Lợi khao khát chiến công nữa, mà chỉ là một con người đau yếu, bệnh tật trước Thiên Thu, bước ra khỏi vòng danh lợi và tổng kết cuộc đời mình, rút ra bài học gửi gắm lại cho con mình bằng cái tâm trong sáng nhất.
***

Sau khi được Thái Tổ “xét rõ đáy lòng”, Nguyễn Trãi được trả tự do và được phục hồi chức tước như cũ. Tuy nhiên, từ trước đó, Nguyễn Trãi đã không còn được Lê Lợi trọng dụng như thời kháng chiến nữa. Giờ đây, sau biến cố đau đớn, mối quan hệ giữa hai người càng lạnh nhạt và Nguyễn Trãi đã dần nhận ra cái hoài bão lớn của ông, cái mộng tôi sáng vua hiền tận tâm với nước, “lo trước điều thiên hạ phải lo”, là khó lòng thực hiện được, dù rằng có thể ông chưa thấu tỏ được sự biến đổi rất sâu trong tâm hồn Lê Lợi.
Thất sủng rồi nhưng Nguyễn Trãi vẫn làm quan, không còn được tin dùng nhưng vẫn làm tròn phận sự. Hình như ông vẫn cố gắng làm được đến đâu hay đến đấy những điều tốt đẹp nhất cho triều đình như một kẻ bất đắc chí nhưng chưa thối chí, vì tấm lòng hướng về Đại Chúng, tư tưởng đại nhân đại nghĩa ở ông vẫn còn nguyên vẹn đó. Cũng vì thế mà ông sống thanh liêm, trong sáng và dù giàu sang phú quí đã không đến với ông thì ông vẫn hài lòng với cuộc sống có phần đạm bạc của mình. Một tâm hồn tham quyền cố vị chỉ chăm chăm vơ vét danh lợi vật chất thông thường sẽ không thể làm được những câu thơ “trần tình” nhưng rất “nhẹ” như Nguyễn Trãi đã làm:
                              “Bữa ăn dù có dưa muối
                              Áo mặc nài chi gấm là”
Và:
                              “Hài cỏ đẹp chân đi đủng đỉnh
                              Áo bô quen cật vận xênh xang”
                  Hay:
                              “Góc thành Nam lều một gian
                              No nước uống thiếu cơm ăn
                              Con đòi trốn đường ai quyến
                              Bầy ngựa gầy thiếu kẻ chăn
                              Ao bởi hẹp hòi khôn thả cá
                              Nhà quen xú xứa ngại nuôi vằn
                              Triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải
                              Góc thành Nam lều một gian”
Nguyễn Trãi không thể không biết câu “công thành thân thoái”, không thể không biết câu chuyện Việt vương - Phạm Lãi, và rõ ràng với lối sống thanh đạm, ông cũng luôn luôn thấy đủ. Vậy thì vì sao lúc bấy giờ ông không lui về Côn Sơn từ sớm mà mãi sau mới về đó ngao du, vui thú với cảnh vật thiên nhiên? Tại sao ông không chịu ra khỏi thời cuộc mà cứ phải “đem thân về với triều đình” để mà buồn man mác ở “góc thành Nam lều một gian”?
Nếu thực sự bất cứ hành động nào của con người cũng vì danh lợi thì Nguyễn Trãi hành động như vậy phải là vì danh lợi gì đó. Nhưng là danh lợi gì? Chúng ta nên nhớ, trong thời Hồ Quí Ly tư tưởng Nho Giáo đã được truyền bá sâu rộng vào nước ta và trở thành như một quốc giáo!
Nguyễn Trãi có một hoài bão lớn. Mong muốn tột bậc của ông là được đem hết tài năng ra để thực hiện hoài bão ấy. Mười năm tham gia kháng chiến là mười năm tài năng của ông được thỏa sức thăng hoa vỗ cánh và thực sự đã góp được công lao to lớn, đã phụng sự được một cách đắc lực cho công cuộc cứu dân, cứu nước. Chắc rằng đó là khoảng đời hồ hởi nhất, dù gian khổ nhưng sảng khoái nhất của ông. Văn thơ thư tịch ông viết trong thời kỳ này đã phản ánh rất rõ cái trạng thái tâm lý ấy, trong đó, “Bình Ngô đại cáo” là tiêu biểu nhất, được đương thời và đời sau thán phục, ngợi ca hết lời và thượng tôn là “thiên cổ hùng văn”.
Nước nhà giải phóng, trước mắt Nguyễn Trãi mở ra con đường thênh thang, cho mong ước của ông: tiếp tục được thực hiện để cái hoài bão lớn lao mà ông đeo đuổi và đang dở dang sớm trở thành hiện thực một cách trọn vẹn. Tinh thần ông lúc này chắc càng thêm phấn chấn với một hy vọng tràn trề. Nhưng cái khoảng khắc ấy mau chóng qua đi trước cái biến thái cũng mau chóng không kém của thực tại. Nhất là sau khi bị buộc tội và hạ ngục, danh dự bị tổn thương, thân phận bị bẽ bàng, thì trong tâm hồn Nguyễn Trãi đã có nhiều vỡ lở khó mà hàn gắn được, lần đầu tiên, có thể ông đã cảm nhận được điều ông mong ước là vô vọng.
Vô vọng rồi thì mục đích làm quan của Nguyễn Trãi cũng không còn. Vậy thì tại sao ông không rời bỏ chốn quan trường mà về đi có hơn không? Hay tại Thái Tổ không cho về vì hình bóng lớn lao của Nguyễn Trãi thời kháng chiến vẫn còn đậm nét trong lòng người, nên trước bàn dân thiên hạ, giữ Nguyễn Trãi ở lại “ngồi chơi xơi nước”, “triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải” có lợi hơn là cho về vườn?
Nếu đó là nguyên nhân thì cũng không phải là duy nhất, còn một nguyên nhân khác nữa.
Danh lợi, hiểu theo nghĩa rộng nhất, là bất cứ thứ gì mà một con người ước muốn. Mong ước cuối cùng của Nguyễn Trãi là đem hết tài năng để góp công tạo dựng nên một triều đình thực sự vì dân, một xã hội thanh bình tươi sáng để dân tình được yên vui, mọi người cùng chung hưởng hạnh phúc. Mục đích làm quan của Nguyễn Trãi chính là vì thế và cái danh lợi mà ông đeo đuổi cũng chính là như thế. Chúng ta cho rằng đó là cái danh lợi cao nhất, tuyệt đỉnh  mà một con người hướng thiện có thể mơ ước được và đồng thời cũng chính là sự thể hiện toàn vẹn nhất của Đức Huyền Diệu.
Mọi sự vật - hiện tượng đều có thể hiện hữu, mọi sự việc đều có thể xảy ra nếu chúng hợp Đạo Lý (Lẽ Tự Nhiên hay Nguyên Lý Tự Nhiên). Tuy nhiên, hợp Đạo Lý chưa chắc đã là hợp Đức Huyền Diệu. Hợp Đức Huyền Diệu mà không hợp Đạo Lý thì bất cứ thứ gì cũng không thể thực hiện được mà chỉ là hiện hữu ảo, là lý tưởng, ảo tưởng, không tưởng… Trong cái môi trường hàm chứa đầy ắp thị phi chốn cung đình, cụ thể là triều đình Thái Tổ, nơi chính vua là người đã (có thể là vô tình!) mở cửa, dung túng cho những mưu cầu hèn kém nhất, phi nhân nhất, thì ước mơ của ông quan “hữu danh vô thực” Nguyễn Trãi hoàn toàn vô vọng là chuyện đương nhiên.
Xét theo hướng ấy, nếu đối với nhiều người khác ở địa vị như Nguyễn Trãi đã là công thành danh toại, thì đối với Nguyễn Trãi là công chưa thành và vì thế mà thân chưa muốn thoái. Nguyễn Trãi đích thị là một nhà nho thuần túy. Quan niệm, cũng như việc đối nhân xử thế của ông hoàn toàn theo Nho Giáo: biết vô vọng rồi mà vẫn cố làm cho được đến đâu hay đến đấy, biết không theo được nữa vẫn cố theo để giữ tiếng trung quân, cô đơn giữa đám loạn thần vẫn “kiến nghĩa bất vi vô dũng dã” để bảo tồn chữ dũng, nghĩa phu phụ đã bạc mà vẫn già nhân ngãi để ôm cho vẹn lòng nhân nghĩa. Có thể nói Nguyễn Trãi là con người lấy chính danh, nhập thế làm lẽ sống. Ngay cả khi về già, “xuất thế” đối với ông cũng chỉ là miễn cưỡng, “lực bất tòng tâm”. Ông xuất thế mà lòng còn vọng động, xuất thế mà không tròn được chữ “vô vi”, xuất thế mà vẫn không ra khỏi được vòng nhập thế.
Ôi danh lợi! Thơm ngon mà cũng thối tha, cay đắng quá chừng!
Nguyễn Trãi là một cuộc đời đáng được ghi tạc công lao, đáng kính phục về tài năng đức độ, đáng xót thương vì bị số phận bạc đãi. Chúng ta càng kính phục, cảm thương ông hơn khi đọc những tâm sự mà ông đã gửi gắm vào văn thơ do chính ông sáng tác ở giai đoạn nửa cuối cuộc đời mình.
Là một nhà nho, tin theo tuyệt đối tư tưởng của Nho Giáo và phục tùng cái hệ thống luân lý máy móc của nó, Nguyễn Trãi đã ưu tiên lựa chọn phương châm sống là nhập thế hữu vi. Nhưng trước hết, Nguyễn Trãi là một con người như mọi người khác, hơn nữa là con người đa sầu, đa cảm, nặng lòng với quê hương và yêu thích cảnh sống thanh dã, gần gũi với thiên nhiên. Cho nên trước cái nhân tình thế thái đầy nhiễu nhương và sặc mùi danh lợi tầm thường chốn triều đình, trong nỗi thất vọng, chán nản trên con đường hoạn lộ đã hầu như mất hết mục đích, con người Nguyễn Trãi, một cách tự nhiên, không thể không bị cái ý tưởng xuất thế, trở về dân dã vui buồn với cảnh đẹp thiên nhiên, kêu réo thiết tha, thúc dục. Giằng xé giữa nhập thế và xuất thế, giữa bổn phận với đất nước theo tư tưởng Nho gia và ao ước tự nhiên muốn rời xa cảnh đời đen bạc, đã là mâu thuẫn lớn nhất, gây khổ đau nhất cho tâm hồn Nguyễn Trãi. Và cái tên hiệu Ức Trai của ông đã như một điềm báo trước. Dưới đây chúng ta trích dẫn một số vần thơ của Ức Trai để phần nào thấy được tâm trạng đó của ông cũng như cái hay, cái đẹp của thơ ông.
Đây là đạo làm người của Ức Trai:
“Một thân lẩn quất đường khoa mục
Hai chữ mơ màng việc quốc gia”
(Ngôn chí, bài 7)
“Bui có một niềm chang nở trễ
Đạo làm con mấy đạo làm tôi”
(Ngôn chí, 1)
“Tôi ngươi hết tấc lòng trung hiếu
Ai há liệu nơi thịnh suy”
(Tự thán, 30)
“Tôi ngươi thề một lòng trung hiếu
Mưa để nghìn đời tiếng hô han”
(Tự thán, 27)
“Quân thân chưa báo lòng canh cánh,
Tình phụ cơm trời, áo cha”
(ngôn chí, 7)
“Quân thân tại niệm chốn tâm đan”
(Hải khẩu dạ bạc hữu cảm, 1)
(Nghĩa quân thần luôn ghi tạc ở tấm lòng son)
(Đêm ở cửa bể, cảm tác, 1)
Và đây là những nỗi niềm của ông:
“Ở thế nhiều phen thấy khóc cười
Năm nay tuổi đã ngoại tư mươi
Lòng người một sự yêm chưng một,
Đèn khách mười thu lạnh hết mười!
Phượng những tiếc cao diều hãy lượn
Hoa thì hay héo, cỏ thường tươi!”
(Tự thuật, 9)

(Đối với hai câu cuối, có người giải nghĩa: ở trong lòng địch, nơi cao không thấy “phượng hoàng” mà chỉ thấy “diều hâu” lượn (!), bọn tham quan như loài cỏ xấu, cứ mọc lên xanh tươi (!). Theo chúng ta thì hiểu như thế là sai. Hai câu đó là sự “than thở” xa xôi về cái nghịch cảnh mà Ức Trai đang “vướng” vào. Ông ví mình như hoa héo, phượng hoàng sa cơ chỉ lượn được như cánh diều)
“Lòng thế bạc đen dầu nợ biến
Ta thì nhân nghĩa chớ loàn đan”
(Trần tình, 3)
“Đã biết cửa quyền nhiều hiểm hóc
Cho hay đường lợi cực quanh co”
(Ngôn chí, 19)
“Thấy biển triều quan đã ngại vượt
Trong dòng phẳng có phong ba”
(Bảo Kính cảnh giới, 41)
“Biển học, trường văn hàng nhật bới
Đường danh, lối lợi hiểu khôn lầm”
(Bảo kính cảnh giới, 23)
“Gia sơn thục bất hoài tang tử
Trung hiếu hà tàng hữu cố câm?”
(Đề Hà Hiệu úy “Bạch vân tư thân”)
(Tình quê hương: ai mà chẳng nhớ cây dâu, cây thị
Lòng trung hiếu: nào từng có phân biệt xưa nay)
(Đề tập thơ “Bạch Vân tư thân” của quan Hiệu ứng họ Hà)
“Ký thác mộng hồn, tâm cố lý
Không tương huyết lệ tẩy tiên oanh”
(Quy Côn Sơn chu trung tác)
(Bao lần trong chiêm bao, tìm về làng cũ
Luống đem nước mắt lẫn máu rửa mồ tổ tiên)
(Trong thuyền về Trung Sơn cảm tác)
“Mả mồ nghìn dặm khôn thăm viếng
Thân cựu mười năm thảy rụng rời”
(Thanh Minh)
“Còn một lòng âu lo việc nước
Đêm đêm thức nhẵn nẻo sơ chung”
(Trích trong “Quốc âm thi tập”)
“Người sao còn chửa đi về
Nửa đời bụi bặm hoài lăn lóc
Muôn chung nghìn đỉnh có làm gì
Nước là cơm rau miễn tri túc…”
(Trích trong một bài thơ chữ Hán, Đào Duy Anh dịch)
“Biển lùa gió bấc, thổi băng băng
Nhẹ kéo buồm thơ vịnh Bạch Đằng
Ngọc chặt kình băm non lởm chởm
Dáo chìm gươm gãy bãi dăng dăng
Quan hà hiểm trở trời kia dựng
Hào kiệt công danh đất ấy từng
Việc cũ ngoảnh đầu ôi, đã dứt!
Dòng trôi tìm bóng dạ bâng khuâng”
(“Cửa biển Bạch Đằng”, dịch từ chữ Hán)
“Niềm cũ sinh linh đeo ắt nặng
Cật trưng hồ hải đạt chưa an
Những vì Chúa thánh âu đời trị
Há kẻ thân nhàn tiếc tuổi tàn
Thừa chỉ ai rằng thời khó ngạt
Túi thơ chứa hết mọi giang san”
(Tự thán, 2)
“Lão khứ cuồng ngôn hữu quái ngã
Lân ký ngã diệc Thượng thừa hiền”
(Tống tăng Đạo Khiêm qui sơn)
(Lúc già hay nói ngông, đừng ngạc nhiên nhé
Tới chỗ rẽ, ta cùng đi tu thiền của phái Thượng Thừa)
(Tiễn sự Đạo Khiêm về núi)
“Trà mai đêm nguyệt dậy xem bóng
Phiến sách ngày xuân ngồi chấm câu
Dưới công danh đeo khổ nhục
Trong dầu dãi có phong lưu”
(Trích trong “Quốc âm thi tập”)

Dù có thể là đã chán ghét cảnh quan trường, chướng tai gai mắt trước thế sự dở ương, trắc trở bởi những mưu mô ti tiện, lập bè kéo cánh, nhưng nhân cách một nhà nho đã ràng buộc Ức Trai ở lại, thực hiện bổn phận để giữ đạo vua tôi, tỏ trọn lòng trung nghĩa. Tuy nhiên, trong chốn sâu thẳm nhất của tâm hồn Ức Trai, vẫn canh cánh một ao ước được trở về với thiên nhiên, xứ sở, sống cảnh “thanh bần cực lạc” cùng thiên nhiên. Mãi đến khi về già, khi được coi là đã tròn bổn phận, ông mới lui được về Côn Sơn. Niềm ao ước tưởng rồi cũng toại nguyện trong những năm tháng cuối đời, ai ngờ là dang dang dở dở để rồi đột ngột chấm dứt trong bi phẫn tột cùng…
Đây là tình tự của Ức Trai về phong cảnh thiên nhiên và nỗi ao ước được hòa vào cảnh sắc thiên nhiên ấy:
“Côn Sơn có khe
Tiếng nước chảy rì rầm
Ta lấy làm đàn cầm
Côn Sơn có đá
Mưa xối rên xanh đậm
Ta lấy làm chiếc thảm
Trong núi có thông
Muôn dặm rờn rờn biếc một vùng
Ta tha hồ nghỉ ngơi ở trong
Trong rừng có trúc
Nghìn mẫu in biếc lụa
Ta tha hồ ngâm nga bên gốc…”
(Trích “Côn Sơn ca”, Đào Duy Anh dịch từ chữ Hán)
“Quét trúc bước qua lòng suối
Thưởng mai về đạp bóng trăng”
(Ngôn chí, 15)
“Núi láng giềng, chim bầu bạn
Mây khách khứa, nguyệt anh tam”
(Thuật hứng, 19)
“Rủ viên hạc, xin phương giải tục
Quyến mai trúc, kết bạn tri âm”
(Tự thuật, 8)

Trong “Quốc âm thi tập” còn rất nhiều câu thơ trữ tình, nghe sâu lắng nhưng xốn xang lòng người, chẳng hạn:
                              “Đêm thanh nguyệt hiện ngoài hiên trúc
                              Ngày vắng chim kêu cuối khóm hoa”
                              “Trì, tham nguyệt hiện, chăng buông cá
                              Rừng, tiếc chim về, ngại phát cây”
                              “Án sách cây đèn, hai bạn cũ
                              Song mai hiên trúc, một lòng thanh”
                              “Tà dương bóng ngả áp giang lâu
                              Thế giới đông nên ngọc một bầu
                              Tuyết sóc leo cây điểm phấn
                              Cỏi đông dải nguyệt in câu!
                              Khói chìm thủy quốc quyến phẳng
                              Nhạn triện hư không gió thâu
                              Thuyền mọn còn chèo chăng khừng đỡ
                              Trời ban tối biết về đâu?”
                              “Nước biếc, non xanh, thuyền gối bãi
                              Đêm thanh, nguyệt bạc, khách lên lầu”
Nhưng than ôi, Ức Trai! Đã về tu tiên rồi mà sao lòng vẫn chưa dứt được nợ trần; sao cứ phải:
“Tự văn chưa mất lòng còn đoái
Định mệnh thôi đành chết cũng cam”?
Hơn ba thế kỷ sau, đại thi hào Nguyễn Du có viết trong “Đoạn trường tân thanh” (Truyện Thúy Kiều) như một đúc kết về thân phận con người cõi trần thế:
“Ngẫm hay muôn sự tại Trời,
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần, phải phong trần
Cho thanh cao, mới được phần thanh cao
Có đâu thiên vị người nào
Chữ tài, chữ mệnh, dồi dào cả hai
Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn Trời gần, Trời xa…”
***

Tư Tề là con trưởng của Lê Lợi, đã từng lăn lộn từ những ngày đầu kháng chiến, giữ chức Tư đồ, rồi được thăng Hữu tướng quốc. Đến năm Kỷ Dậu (1429), Tư Tề được Lê Lợi cử làm Quốc vương, tạm coi việc nước (trùng với năm Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo bị bức tử, Nguyễn Trãi bị hạ ngục; không biết có điều gì uẩn khuất ở đây không?!). Rồi nghe đâu Tư Tề mắc chứng cuồng. giết bừa các tỳ thiếp (kể cũng thật lạ!). Thái Tổ không ưa, bèn phế bỏ, lập Nguyên Long, người con thứ hai lên ngôi Thế tử.
Lê Nguyên Long lên ngôi vua ngày 8 tháng 9 năm Quí Sửu (1433), gọi là Thái Tông, lấy niên hiệu là Thiệu Bình. Khi lên ngôi, Thái Tông mới 11 tuổi, quyền hành nằm trong tay nhiếp chính Đại Tư đồ Lê Sát và phụ tá nhiếp chính, Đô đốc Lê Vấn. cả hai đều là nhạc phụ của nhà vua.
Lê Sát xin phục chức cho bọn Lê Quốc Khí, Trịnh Hoành Bá, Lê Đức Dư…, nhưng tuân theo di huấn của Thái Tổ, vua Thái Tông không nghe. Đến năm 15 tuổi, nhà vua đã xét đoán rành rẽ mọi việc mà Lê Sát vẫn khư khư quyền nhiếp chính, tiếm quyền. Thái Tông bất bình kết tội Sát, bãi hết chức tước, cho tự tử ở nhà, điền sản bị sung công. Những kẻ thuộc bè đảng của Lê Sát cũng đều bị bãi chức, đồng thời phục chức quan cho Bùi Ư Đái, Bùi Cầm Hổ… Hành động đó chứng tỏ nhà vua tuy còn ít tuổi nhưng đã biết quyết đoán. Về nhân cách của Lê Thái Tông, sử cũ nhất loạt nhận xét: “Vua tư chất sáng suốt tinh khôn; khi cầm quyền chính: trong ngăn ngừa kẻ cường thần, ngoài dẹp yên các man động; trọng đạo; chuộng Nho, đặt khoa thi, chọn kẻ sĩ, chế lễ nhạc, rõ chính hình; văn vật rực rỡ đủ cả, đáng khen là vua hiền”. Điều này có khơi gợi lại hy vọng về một triều đình có tôi sáng vua hiền trong lòng Nguyễn Trãi không?
Tuy nhiên trong triều đình không còn đám Lê Quốc Khí, Đinh Bang Bảng… thì lại xuất hiện đám Lê Cảnh Xước, Nguyễn Thúc Huệ, Lương Đăng… và nạn bè phái, tìm cách triệt hạ nhau trong hậu cung, lăm le quanh ngai vàng, trong dòng tộc, thân bằng quyến thuộc của nhà vua thì chưa bao giờ chấm dứt.
Sau khi Thái Tổ băng hà, Nguyễn Trãi vẫn tiếp tục làm quan dưới triều Thái Tông cho đến năm 1438, khi nhà vua đã đủ lớn và tự quyết rành rẽ mọi việc triều chính, thì mới cáo lui về Côn Sơn (Hải Dương) an trí. Có nhiều khả năng trong khoảng thời gian từ năm 1433 đến năm 1434, Nguyễn Trãi đã gặp Nguyễn Thị Lộ và nhận về làm thiếp.
Tương truyền, một chiều xâm xẩm tối, tan chầu về, Ức Trai bắt gặp một người con gái bán chiếu, nhan sắc tuyệt trần. Tức cảnh sinh tình, ông hỏi bỡn bằng 4 câu thơ:
“Ả ở đâu đi bán chiếu gon
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn
Xuân thu chừng độ bao nhiêu tuổi
Đã có chồng chưa, được mấy con?”
Hỏi vui thế, không ngờ cô gái bán chiếu ứng khẩu, đáp luôn cũng bằng 4 câu thơ không kém phần láu lỉnh:
“Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gon
Cớ chi ông hỏi hết hay còn?
Xuân thu mới độ trăng tròn lẻ
Chồng còn chưa có, nói chi con!”
Lời đáp ấy đã là một tiếng sét ái tình đánh trúng ông quan luống tuổi, đang “nhàn nhã” đồng thời là nhà thi hào đa tình. Ức Trai đã đem lòng mê mẩn người con gái sắc sảo “mới độ trăng tròn lẻ” ấy. Còn người con gái ấy có bị tiếng sét ái tình đánh trúng không? Chúng ta đoán là không! Nhưng trước một Ức Trai lừng lẫy công danh như thế, chắc là nàng phải động lòng. Và chắc trong lòng nàng cũng trỗi dậy một ước vọng về tương lai… Lịch sử lu mờ đã không cho chúng ta biết được nhiều điều. Dù sao đi nữa thì họ đã nên vợ nên chồng.
Người con gái ấy chính là Nguyễn Thị Lộ. Thị Lộ vốn là con nhà gia giáo, có học, ở làng Hải Triều tức làng Hới, một làng có tiếng làm chiếu (nay thuộc xã Phạm Lễ, huyện Quỳnh Thụ, Thái Bình). Trước Thị Lộ, Ức Trai đã có 3 bà vợ, đều có con với ba bà ấy. Thị Lộ không có con, sau này được Ngô Thị Ngọc Dao giới thiệu cho cô cháu là Ngô Chi Lan làm con nuôi. Ngô Chi Lan đổi tên là Nguyễn Hà Huệ về sau lấy Phú Thúc Hoành, một người học giỏi, từng làm Bác sĩ giảng kinh sử ở Quốc Tử Giám thời Lê Thánh Tông. Bản thân Ngô Chi Lan lúc đó làm Lễ Nghi học sĩ (giống Thị Lộ đã từng giữ thời Thái Tông), đồng thời là nữ thi sĩ có tài.
Vua Lê Thái Tông thấy Thị Lộ xinh đẹp lại có văn tài, nên có lòng yêu mến, bèn phong làm Lễ Nghi học sĩ, được phép tự do ra vào cung và (có sách nói) ngày đêm hầu bên cạnh. Sự yêu mến của nhà vua đối với Thị Lộ đến mức độ nào, đã chung chăn gối chưa? Sử cũ, không nói rõ nhưng phần đông các sử gia đều ám chỉ rằng có. Nhưng dù có hay không thì cũng không nên kết tội Thị Lộ giết vua với những lời lẽ nặng nề cay độc quá. Thị Lộ là một thiếu nữ tài hoa và nếu biết dùng nhan sắc của mình để được vua sủng ái mà tiến thân, vươn tới một địa vị nào đó trong xã hội thì cũng là chuyện thường tình. Thái Tông là một ông vua có thể là “đam mê tửu sắc”, nhưng với khối lượng công việc triều chính và điều hành đất nước mà sử đã ghi chép thì không phải là ông vua mất nhân cách, bê tha, sa đọa. Có thể nhìn thấy Thị Lộ qua tấm gương phản chiếu nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương được chăng?...
Theo nhà sử học Phan Huy Chú thì: “Khi ông (tức Nguyễn Trãi) lo việc nước, những chiếu thư, từ mệnh nàng (tức Thị Lộ), đều được dự nhuận sắc”. Có thể vì thấy thế mà vua bèn “thích vợ của Thừa chỉ Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ, người rất đẹp, văn chương rất hay, gọi vào cung phong làm Lễ Nghi học sĩ” (Đại Việt sử ký toàn thư). (Người thường cũng thích chứ huống gì vua! Các “sếp” bây giờ chúa là thích nữ thư ký xinh đẹp. Tuy nhiên không phải cứ như thế là họ hư hỏng!).
Đầu năm Đinh Tỵ (1437), nhà vua giao cho Nguyễn Trãi và hoạn quan Lương Đăng đốc xuất làm loan giá, thẩm định nhã nhạc. (Có thể Thị Lộ được phong chức Lễ Nghi học sĩ vào dịp này). Đến đây, một phần là do mâu thuẫn không hòa được với đám triều thần nịnh vua, xu thời, một phần đã có Thị Lộ cáng đáng được những công việc lễ nghi triều chính; một phần nữa là đã già và quá chán nản việc quan, Ức Trai xin từ quan về trí sĩ ở Côn Sơn (vườn Lệ Chi).
Thái Tông đồng ý cho về, nhưng lâu lâu, khi cần, vẫn cho vời Ức Trai trở lại kinh thành giúp việc triều đình trong những khoảng thời gian ngắn nhất định.
Có một sự kiện đáng chú ý: cuối năm 1440, Nguyễn Thị Anh, người vợ thứ tư của Thái Tông (Thái Tông có 5 người vợ chính thức) sinh ra Bang Cơ (sau này là Lê Nhân Tông). Ngay tháng sau, Thái Tông tước ngôi Đông Cung thái tử của Nghi Dân (con người vợ thứ 3) để lập Bang Cơ làm Thái tử. Cũng trong năm đó, người vợ thứ 5 của Thái Tông là Ngô Thị Ngọc Dao có mang. Thị Anh sợ Ngọc Dao sinh quí tử dẫn đến Bang Cơ mất ngôi Thái tử, nên tìm cách vu khống, xin vua khép vào tội voi dày. Lễ Nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ thấy oan uổng (sử cũ cho rằng cả Ức Trai tham gia trực tiếp vào vụ này, nhưng chắc là không phải thế!) đã xin Thái Tông để cứu Ngọc Dao. Chắc là nể Thị Lộ, vua đổi hình phạt, cho Ngọc Dao an trí (thực chất là giam lỏng) ở chùa Huy Văn (gần Văn Miếu). Sợ chưa yên, Thị Lộ sai người đưa Ngọc Dao vào An Bang (Quảng yên). Về sau, Ngọc Dao sinh ra Tư Thành (sau này là vua Lê Thánh Tông)
Những việc đó đều đến tai Thị Anh. Từ đó mà sinh mối thù ghét của Thị Anh với Thị Lộ (và lây sang cả Nguyễn Trãi). Như vậy, Nguyễn Trãi đã vô tình không biết rằng mình là tâm điểm mối thâm thù của bè lũ Thị Anh và triều thần cùng phe cánh. Mầm tai họa đã kết tụ chờ ngày phát tác. Chỉ có điều chưa biết phát tác lúc nào và mức độ phát tác ra sao mà thôi.
Mối quan hệ gần gũi, mật thiết giữa ông vua còn quá trẻ và Lễ Nghi nữ học sĩ tài sắc đang ở độ tuổi sung mãn nhất không thể thoát được lời đàm tếu, gièm pha, vẽ vời thêm, thổi phồng lên của bọn người ghét ghen. Chắc chắn những đàm tếu, thị phi đó cũng đã đến tai Ức Trai trong những ngày hưu trí ở Côn Sơn. Trong bài thơ gửi Thị Lộ chúng ta thấy toát lên nỗi buồn xót xa và vừa thương vừa oán trách nàng nhẹ dạ, mê vui theo bả hư vinh:
“…
Ngày vắng chim bay khoảng trống, nỗi ta những ngóng tăm hơi
Đêm khuya trăng khuất tầng mây, nỗi nàng thấu chăng u uất?
Như tấm gương, như quả cân: chưa soi, chưa chỉnh
Như mặt trời, mặt trăng đương chiếu, đương lên
Lời thề khắc Nam Sơn, sừng sững Nam Sơn vẫn đó
Lời nguyền ghi Đông Hải, bao la Đông Hải còn đây.
Lòng ta đã không sờn,
Chí nàng đi chẳng đổi…”
Nhưng than ôi:
“Tình đời lắt léo,
Lòng gái không thường
Có kẻ tình ngoại giết chồng, nào sợ trời xanh lồng lộng.
Có người mê chơi bỏ nghĩa, chẳng hay vầng nhật sáng choang choang
Tưng bừng vườn Hán dạo chơi,
Hớn hở lầu Tần vui cuộc
Nỗi riêng do kế đoản, nên việc được việc mất sinh ra
Lại vì kẻ mưu sâu, để chuyện ta, chuyện mình xảy đến
Giữa trần ai, ai biết người quân tử
Trong đám ngọc, ai biết đá vũ phu?
Thân không chính lấy thân, khổ thay hờn duyên tủi phận
Nghĩa chẳng còn là nghĩa, chỉ toan oán trời, trách người
Chuyện ngày xưa đã đành,
Việc ngày nay đáng trách…”

Hình như đã có điềm báo và với bộ óc mẫn tiệp, từng trải của mình, Ức Trai đã linh cảm được điều bất thường.
Và đây là lời phân trần, biện bạch của Thị Lộ (ở chiều rất sâu, có thể cảm nhận được cái hơi thở hừng hực thanh xuân trong thân phận éo le của nàng):
“Chỉ xin chàng nên:
Lấy quân tử làm lòng
Lấy thánh hiền làm đạo
Vua Thuấn xưa hai vợ mà tình chăn chiếu vẫn đường hoàng
Đời Ngu có ông chồng mà nỗi buồng the không đắm đuối
Đọc kinh sử thông kim bác cổ
Lấy trung thứ sinh ra ta người
Mối tình muộn màng nào quên, núi tuy khuất mà lòng thiếp không khuất
Lời thề đinh ninh khó nhạt, sông dù vơi mà ý thiếp không vơi
Còn gì liệu đáng băn khoăn
Phải chăng tự mình chuốc lấy?
Chỉ riêng mong
Xe thư một mối
Văn giáo cùng đường
Dù kín mít như rồng ẩn vực sâu
Sẽ sáng lòa như đầu xuân nắng mới
Vốn nhân, vốn kính, ngoài là vua vua, tôi tôi
Càng mến càng thân, trong là chồng chồng vợ vợ.
Nền có chắc thì nước mới vững
Nhà có hòa thì việc mới thành
Nghe gà gáy để đọc Tề thi, thiếp mong học hiền phi lập đức
Nhìn móng lân giữ nếp công tư, thiếp xin theo thánh mẫu ban nhân
Cũng mong sáng chói nghìn đời
Để lại tiếng tăm muôn thưở…”

Ngày 27 tháng 7 năm Nhâm Tuất (1442), vua Lê Thái Tông đi tuần ở miền Đông, duyệt quan ở thành Chí Linh. Ngày 4 tháng 8, nhà vua cùng với Thị Lộ về đến Lệ Chi Viên (nơi ở của Ức Trai, tục gọi là Trại Vải ở làng Đại Lại, huyện Gia Bình, tỉnh bắc Dinh, nay là huyện Gia Lương, Hà Bắc), “thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi băng hà, các quan bí mật đưa về, ngày mồng 6 đến Kinh Sư, nửa đêm đem vào cung mới phát tang” (Đại Việt sử ký toàn thư)
Đó là cái chết đột ngột, bất đắc kỳ tử. Nguyên nhân của nó cho đến tận ngày nay vẫn là bí ẩn lịch sử. Dù có nhiều lý giải, nhận định về cái chết của Thái Tông như do thượng mã phong, sốt rét, cảm, đột quị, đầu độc… nhưng đều chưa xác thực. Dù sao thì một điều hiển nhiên là không ai mong muốn cái chết đó cả và nếu có thì không ai ngoài Nguyễn Thị Anh. Do đó cũng không thể loại trừ khả năng chính Thị Anh đã âm mưu đầu độc giết vua và cái chết của Thị Lộ cũng như của Ức Trai là kết quả của sự trả thù hèn hạ mà đồng thời cũng là kết quả của hành động bịt đầu mối, tiêu trừ nhân chứng, hậu họa.
Ngày 12 tháng 8 năm Nhâm Tuất (1442), các đại thần nhận di mệnh là Trịnh Khả, Nguyễn Xí, Lê Thu, Lê Liệt, Lê Bôi tôn Hoàng tử Bang Cơ lên nối ngôi, lấy tên hiệu là Nhân Tông, đổi niên hiệu là Thái hòa. Lúc đó, vì Bang Cơ mới 2 tuổi nên mẹ là Thái hậu Nguyễn Thị Anh được buông rèm nhiếp chính, tạm coi việc nước thay con (thời gian gọi là tạm đó kéo dài đến hơn 10 năm!)
Đến đây, mầm tai họa đã đủ mọi điều kiện thuận lợi để phát tác ở tầm mức tàn độc nhất của nó. Nguyễn Thị Lộ bị qui tội giết vua. Lúc đầu, nàng một mực kêu oan, nhưng do bị tra tấn với nhiều cực hình dã man, không chịu nổi, đã nhận Ức Trai là chủ mưu (theo lời hỏi ép của đám hình quan!). Và thế là quan Hành khiển Nguyễn Trãi - Ức Trai bị khép vào tội ấy và bị xử tru di tam tộc (tất cả con và cháu trai bị giết, vợ và con gái, cháu gái bị sung tỳ thiếp). Đó là ngày 16 tháng 8 năm Nhâm Tuất, tức ngày 19-9-1442. Ba ngày sau, cuộc hành quyết thảm khốc xảy ra. Hai viên hoạn quan là Đinh Phúc, Đinh Thắng, lỡ miệng than oan cho quan Hành Khiển, cũng bị đem chém đầu.
Trước khi bị hành hình, Ức Trai có nói: “Hối không nghe lời của hoạn quan Đinh Phúc, Đinh Thắng”. Hai ông này đã nói gì? Đó vĩnh viễn là một bí ẩn. Nhưng chính Ức Trai chứ không ai khác là người đã thấy được cái nguyên nhân sâu xa nhất về cái chết của mình. Ông đã trối lại cho hậu thế lời nhắn nhủ thật bi phẫn:

“Họa phúc hữu môi phi nhất nhật
Anh hùng di hận kỷ thiên niên”
(Họa phúc có nguồn, phải đâu một buổi
Anh hùng để hận hàng mấy ngàn năm)
Gieo gì gặt nấy, ác giả thì ác báo. Mùa đông năm Kỷ Mão (1459), Lạng Sơn Vương Nghi Dân (là anh vua Nhân Tông, người bị Thái Tông tước ngôi Đông cung Thái tử) đang đêm bắc thang vào tận cung cấm giết vua và Tuyên từ Hoàng thái hậu (Nguyễn Thị Anh) rồi tự lên làm vua. Nhưng chỉ 8 tháng sau lại bị các đại thần là Nguyễn Xí, Đinh Liệt xướng nghĩa lật đổ, tôn người con thứ tư (và cũng là út) của Thái Tông tên là Tư Thành lên ngôi vua, với hiệu là Thánh Tông. Nghi Dân bị giáng xuống tước hầu.
Lê Thánh Tông là một ông vua sáng, hiền; có bản lĩnh. Người đương thời nhận xét: vua tựa trời cao siêu, anh minh quyết đoán, có hùng tài đại lược, võ giỏi văn hay, mà thánh học rất chăm, tay không lúc nào rời quyển sách; các sách kinh sử, lịch toán, các việc thánh thần, cái gì cũng tinh thông; văn thơ thì hay hơn cả các quan văn học. Ông là vị vua rất có ý thức về trách nhiệm của mình đối với đất nước. Ông từng viết:
                              “Lòng vì thiên hạ những sơ âu
                              Thay việc trời dám trễ đâu
                              Trống dời canh còn sách
                              Chiêng xế bóng chưa thôi chầu”
Ông cũng từng nói: “Một thước núi, một tấc sông của ta có lẽ nào tự tiện vứt bỏ đi được. Nếu người nào dám đem một thước, một tấc đất của vua Thái Tổ, làm mồi cho giặc thì người đó sẽ bị trừng trị nặng”
Nhờ đó mà dưới thời trị vì của Thánh Tông, quốc gia Đại Việt đã đạt được sự phát triển rực rỡ về mọi mặt.
Chính vua Lê Thánh Tông đã xuống chiếu giải oan cho Nguyễn Trãi sau 20 năm bị hại, truy phong ông là Thái sư Tuệ Quốc Công, ra lệnh sưu tầm thơ văn của Ức Trai (hơn 100 bài thơ được tìm thấy trong thời gian này); cấp cho con cháu còn sống sót của Nguyễn Trãi 100 mẫu ruộng để dùng vào việc thờ cúng vị đại khai quốc công thần. Trong khúc “Quỳnh uyển ca”, nhà vua viết:
                              “Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo”
                              (Lòng Ức Trai sáng như sao khuê)
Có một tình tiết thế này:
Người vợ cả của Nguyễn Trãi là Trần Thị Thành. Bà sinh được ba con trai. Người đầu tiên là Nguyễn Khuê, cùng bị giết theo cha. Người thứ hai là Nguyễn Ứng, cùng hai con trai chạy thoát lên vùng Đoan Hùng (Vĩnh Phú), rồi lên Lai Châu, đổi qua họ Ngạc, đến nay chưa rõ tung tích. Người thứ ba là Nguyễn Phú, chạy thoát lên Thái Nguyên, rồi lên phía Cao Bằng, dựa vào dòng họ Bế Khắc Triệu, dân tộc Tày, sau yên ổn mới trở về Gia Miêu ngoại trang ở Trung Sơn (Thanh Hóa). Nguyễn Công Duẩn có con trai là Nguyễn Đức Trung làm quan, giữ chức Điện Tiền Chỉ Huy sứ thời Lê Thánh Tông. Con gái Nguyễn Đức Trung là Nguyễn Thị Hằng về sau làm vợ Lê Thánh Tông, trở thành Trường Lạc Hoàng Hậu. Người vợ thứ hai của Ức Trai họ Phùng (không rõ tên) sinh được hai trai là Bản và Tích, hai gái là Trà và Lương. Cho đến nay cũng không rõ thân phận họ như thế nào, có bị giết trong vụ án Lệ Chi Viên hay không? Người vợ thứ ba là Phạm Thị Mận, thoát được, trốn nhiều nơi, sang cả Lào, sau khi tình hình lắng ổn thì về Gia Miêu ngoại. Trong khi chạy trốn, bà đang có mang, sau sinh ra Phạm Anh Vũ, được Lê Thánh Tông cho làm quan. Anh Vũ đi sứ Trung Quốc, lúc về bị đắm thuyền, chết. Vua truy tặng tước Thái sư Sùng Quốc Công.
Chắc rằng Ức Trai cũng đã thỏa nhẹ nỗi lòng mà thanh thản ngậm cười nơi chín suối!
Ông sẽ vui hơn nữa khi biết rằng hậu thế đã tôn vinh ông là một đại anh hùng của Dân tộc Việt.




Mời xem:

LỜI PHÂN TRẦN

PHẦN I: CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ

PHẦN II: NỀN TẢNG

PHẦN III: NGUỒN CỘI